MindMap Gallery Các giai đoạn của lịch sử Trung Quốc
Sơ đồ tư duy này, được tạo bằng EdrawMind, trình bày các giai đoạn lịch sử Trung Quốc. Nó bao gồm các thời kỳ như Thượng Cổ, Xia, Thương, Chu, Tần, Hán, Tam Quốc, Tấn, Nam Bắc Triều, Tùy, Đường, Ngũ Đại Thập Quốc, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Mỗi giai đoạn được giải thích chi tiết với các sự kiện, nhân vật, và đặc điểm lịch sử quan trọng. Sơ đồ giúp hiểu rõ hơn về bức tranh toàn cảnh lịch sử Trung Quốc.
Edited at 2022-06-09 05:44:17Este mapa mental, creado con EdrawMind, se centra en el análisis de la obra "Nhà Giá Kim". Se divide en tres secciones principales: "Bài học rút ra sau khi đọc sách" (Lecciones aprendidas después de leer el libro), "Cảm nhận" (Impresiones) y "Tóm tắt câu chuyện" (Resumen de la historia). Bài học rút ra sau khi đọc sách incluye puntos como la importancia de escuchar a los demás, no rendirse ante dificultades, y la búsqueda de la felicidad. Cảm nhận aborda las emociones y reflexiones personales tras leer el libro. Tóm tắt câu chuyện resume la trama, personajes y mensajes clave de "Nhà Giá Kim".
Sơ đồ tư duy này, được tạo bằng EdrawMind, tập trung vào Chương 7, nội dung tóm tắt các lý do tại sao Thuyết Trường TC Hành vi Chọn Ràng và Thuyết Trường Hiệu quả Thế không đúng. Các lý do được chia thành các nhóm chính như: Sơ sảnh và làm rõ sự trùng giữa ký vọng thức ứng và ký vọng hợp lý, Giải thích tại sao các hối Arbitrage cho thấy hợp lý của giá thuyết trường hiệu quả, Xác định và giải thích yếu tố nào của thuyết trường TC quả đối với thực tiễn, Đánh giá tác động của thông tin mới lên giá có phương. Mỗi nhóm lý do được phân tích chi tiết với các điểm mấu chốt và ví dụ minh họa.
Mind map này được tạo bằng EdrawMind, tập trung vào chủ đề "Tiền, Ngân Hàng, Tt Tài Chính CLC9". Nó cung cấp một cái nhìn tổng quan về các khái niệm cơ bản, các chức năng của tiền tệ, hệ thống ngân hàng, và các công cụ tài chính. Mind map được chia thành nhiều mục nhỏ, mỗi mục giải thích chi tiết các vấn đề liên quan như lịch sử tiền tệ, các loại tiền, vai trò của ngân hàng trung ương, và các chính sách tiền tệ.
Este mapa mental, creado con EdrawMind, se centra en el análisis de la obra "Nhà Giá Kim". Se divide en tres secciones principales: "Bài học rút ra sau khi đọc sách" (Lecciones aprendidas después de leer el libro), "Cảm nhận" (Impresiones) y "Tóm tắt câu chuyện" (Resumen de la historia). Bài học rút ra sau khi đọc sách incluye puntos como la importancia de escuchar a los demás, no rendirse ante dificultades, y la búsqueda de la felicidad. Cảm nhận aborda las emociones y reflexiones personales tras leer el libro. Tóm tắt câu chuyện resume la trama, personajes y mensajes clave de "Nhà Giá Kim".
Sơ đồ tư duy này, được tạo bằng EdrawMind, tập trung vào Chương 7, nội dung tóm tắt các lý do tại sao Thuyết Trường TC Hành vi Chọn Ràng và Thuyết Trường Hiệu quả Thế không đúng. Các lý do được chia thành các nhóm chính như: Sơ sảnh và làm rõ sự trùng giữa ký vọng thức ứng và ký vọng hợp lý, Giải thích tại sao các hối Arbitrage cho thấy hợp lý của giá thuyết trường hiệu quả, Xác định và giải thích yếu tố nào của thuyết trường TC quả đối với thực tiễn, Đánh giá tác động của thông tin mới lên giá có phương. Mỗi nhóm lý do được phân tích chi tiết với các điểm mấu chốt và ví dụ minh họa.
Mind map này được tạo bằng EdrawMind, tập trung vào chủ đề "Tiền, Ngân Hàng, Tt Tài Chính CLC9". Nó cung cấp một cái nhìn tổng quan về các khái niệm cơ bản, các chức năng của tiền tệ, hệ thống ngân hàng, và các công cụ tài chính. Mind map được chia thành nhiều mục nhỏ, mỗi mục giải thích chi tiết các vấn đề liên quan như lịch sử tiền tệ, các loại tiền, vai trò của ngân hàng trung ương, và các chính sách tiền tệ.
Các giai đoạn của lịch sử Trung Quốc
Cảm nhận
Qua tìm hiểu sơ lược về các triều đại Trung Quốc, có thể thấy là cứ đến cuối các triều đại Trung Quốc, Hoàng đế lại liên tục chết trẻ. Nguyên nhân là vì trình độ và điều kiện y tế thời đó còn nghèo nàn lạc hậu vì thế không thể bảo vệ sức khỏe con người được tốt. Đồng thời, việc kết hôn cận huyết trong hoàng thất phong kiến là rất nhiều dẫn đến đời sau sẽ bị suy nòi. Cũng có không ít Hoàng đế nghiện rượu, ham mê nữ sắc, khiến cho cơ thể vốn đã suy nhược càng trở nên yếu kém hơn.
Cụ thể là sau thời Đạo Quang Đế, Hàm Phong Đế chỉ tại vị 11 năm thì qua đời. Sau đó Đồng Trị Đế khi mới 19 tuổi đã chết bệnh khiến Quang Tự Đế đăng cơ khi mới vừa 4 tuổi, Từ Hy Thái Hậu nắm quyền giai cấp thống trị hỗn loạn vô cùng. Có thể thấy rằng nguyên nhân dẫn đến nhà Thanh rơi vào con đường diệt vong là do các vị Hoàng đế đoản thọ, hoàng quyền biến động do thay đổi liên tục.
Không chỉ riêng nhà Thanh, xét về các triều đại Trung Quốc trước cũng vậy. Những vị Hoàng đế sống thọ nhất là Hán Cao Tổ Lưu Ba thọ 62 tuổi, Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế cũng đều thọ gần 50 tuổi. Ngược lại, đến thời Đông Hán, Thương Đế Lưu Long 2 tuổi chết yểu, Xung Đế Lưu Bỉnh 3 tuổi mắc bệnh qua đời, Hán Chất Đế Lưu Toản 9 tuổi đã băng hà.
Việc cứ 2-3 năm lại thay một vị Hoàng đế khiến cho các vương triều không thể chống chọi được những rối loạn trong bộ máy cầm quyền, bên cạnh đó là quân xâm lược luôn nhăm nhe bờ cõi. Không chỉ vậy có những vị Hoàng đế còn rất nhỏ tuổi, một đứa trẻ mới 10 tuổi làm sao có thể nắm trong tay an nguy của cả một đất nước. Cuối cùng là dẫn đến việc quốc gia bị chia cắt, thời thế loạn lạc.
83 lần thay đổi triều đại với hơn 600 nhà cầm quyền. Xét về độ hoàng kim và hưng thịnh thì chỉ có 9 trong các triều đại Trung Quốc dưới đây được công nhận.
1. Nhà Hạ (2070 TCN – 1600 TCN)
Triều Hạ là triều đại phong kiến đầu tiên của Trung Quốc được thiết lập bởi vua Hạ Vũ. Trải qua hơn 500 năm lịch sử với 17 đời vua trị vì đất nước. Nhà Hạ là triều đại đầu tiên mở đầu cho phát triển kinh tế nông nghiệp và xây dựng lực lượng quân đội hùng hậu.
2. Nhà Thương (1600 TCN – 1046 TCN)
Kinh đô nhà Thương thuộc An Dương, tỉnh Hà Nam ngày nay. Hai đóng góp lớn của triều đại này phát triển chữ viết trên vỏ sò – chữ Giáp cốt và kỹ thuật luyện kim đồ đồng. Ngoài ra, khảo cổ học Trung Quốc cũng có nhiều chứng minh nền văn minh Trung Quốc phát triển đến trình độ tương đối cao ở thời nhà Thương.
3. Nhà Chu (1046 TCN – 256 TCN)
Với thời gian trị vì hơn 1000 năm, nhà Chu là một trong các triều đại Trung Quốc tồn tại lâu đời nhất trong lịch sử. Trong triều đại nhà Chu, các công cụ trong sản xuất nông nghiệp đã có xuất hiện các công cụ làm bằng sắt. Từ đó từng bước sử dụng trâu cày, phát triển kinh tế thủy nông kết hợp, sản lượng cây trồng nâng cao. Ngoài ra, người dân đã dùng tiền đúc và sử dụng tiền để trao đổi hàng hóa.
4. Nhà Tần (221 – 207 TCN)
Trải qua hơn 2000 năm nô lệ, lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, nhà Tần là triều đại phong kiến tập quyền trung ương thống nhất đầu tiên trong lịch sử.Chế độ quân huyện do nhà Tần sáng lập đã trở thành định chế trong lịch sử Trung Quốc. Đặc biệt, dưới thời kỳ nhà Tần đã thống nhất chữ viết để dễ cho việc trao đổi văn hóa.
Ngoài ra, nhà Tần còn thống nhất dụng cụ đo lường trong cả nước gồm thước đo, du tích, trọng lượng. Thống nhất đồng tiền và pháp luật, tạo điều kiện cho phát triển nền kinh tế đất nước cũng như tăng cường sức mạnh của bộ máy chính quyền. Mặc dù chỉ tồn tại 15 năm nhưng sức ảnh hưởng của nhà Tần đến các triều đại Trung Quốc sau này là không thể bàn cãi.
5. Nhà Hán (202 TCN – 220)
Triều nhà Hán là triều đại hưng thịnh, vỹ đại nhất trong lịch sử Trung Quốc. Với hơn 4000 năm trị vì, nhà Hán đã thực hiện nhiều chính sách đối nội đối ngoại, phát triển kinh tế giúp cho nhân dân an cư lạc nghiệp, đất nước ổn định chính trị. Cùng với nền kinh tế phát triển ổn định, nhà Hán còn phát triển thêm các ngành thủ công, thương nghiệp, văn nghệ thuật, cũng như khoa học kỹ thuật cũng có bước phát triển vượt bậc.
6. Nhà Đường (618 – 907)
Nhà Đường là một trong các triều đại Trung Quốc hùng mạnh nhất trong lịch sử. Dưới sự cai trị của nhà Đường, kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự đều đạt đến trình độ cao so với các triều đại Trung Quốc trước đó.
7. Nhà Tống (960 – 1279)
Sau nhà Đường thì nhà tống được xem là giai đoạn hoàng kim trong lịch sử Trung Quốc với nhiều thành tựu trong nền kinh tế và văn hóa. Đây là triều đại đầu tiên trên thế giới tại thời điểm đó cho lưu hành tiền giấy. Đồng thời cũng là triều đại dùng thuốc súng đầu tiên trong lịch sử và có nhận thức sâu sắc trong sử dụng la bàn phục vụ cho cuộc sống.
8. Nhà Minh (1368 – 1644)
Đây là một trong những triều đại ổn định nhất trong các triều đại Trung Quốc. Dưới triều đại nhà Minh, nền văn chương đạt được nhiều thành tựu to lớn, tiêu biểu là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng“Tây Du Ký”.
9. Nhà Thanh (1644 – 1912)
Nhà Thanh là triều đại phong kiến cuối cùng của Trung Quốc. Nắm quyền cai trị đất nước trong gần 3 thế kỷ, nhà Thanh cũng là một trong các triều đại Trung Quốc có nhiều thành tựu to lớn về kinh tế và văn hóa. Trong đó nổi bật lên là xuất hiện nhiều nhà tư tưởng kiệt xuất như Cố Viêm Vũ, Đới Chấn…cũng như các nhà văn học nghệ thuật như Tào Tuyết Cần, Ngô Kính Tử, Thạch Đào. Về mặt sử học, nhà Thanh cũng có những thành quả rực rỡ với nhiều nhà khảo cứu lịch sử tài ba biên soạn nhiều bộ sách lớn như “Tứ Khố Toàn Thư”, “Cổ kim đồ thư tập thành”… Lĩnh vực khoa học – kỹ thuật cũng phát triển rực rỡ, trong đó nổi bật nhất là thành tựu kiến trúc.
Thời cổ đại (~5.000 TCN - 221 TCN)
Triều đại Trung Quốc: Tam hoàng - Ngũ Đế Thời kỳ Tam Hoàng – Ngũ đế tại Trung Quốc là thời kỳ thuộc về những đế vương sớm nhất trong truyền thuyết Trung Quốc. Họ là những thủ lĩnh bộ tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc, không phải là đế vương trong ý nghĩ hiện đại. Từ xưa đến nay, Tam hoàng ngũ đế do trải qua các niên đại lâu đời. Chỉ thấy ghi chép trong thư tịch cổ mà không đào được văn vật chứng thực. Do đó chỉ là truyền thuyết, thậm chí là nhân vật trong thần thoại mà thôi. Vậy Tam hoàng ngũ đế là những ai? Trong lịch sử Trung Quốc có nhiều cách nói khác nhau? Tam Hoàng Ở đây chỉ đưa ra cách nói trong quyển Thượng thư – Tự của Khổng An Quốc, quyển Đế vương thế kỷ của Hoàng Phủ Mật và quyển Thế bản của Tôn Thị Hồng, thắng được Tam hoàng là: Thái Hạo Phục Hy, Viêm đế Thần Nông, Hoàng Đế. Ngoài ra còn nhiều quan điểm “Tam Hoàng” như sau: Thiên Hoàng – Địa Hoàng – Nhân Hoàng/Thái Hoàng (theo Sử ký Tư Mã Thiên và Nghệ văn loại tụ – Xuân Thu vĩ) Phục Hy – Nữ Oa – Thần Nông (theo Vận Đẩu Xu và Nguyên Mệnh Bao) Toại Nhân – Phục Hy – Thần Nông (theo Thượng thư đại truyện và Bạch hổ thông nghĩa) Phục Hy – Thần Nông – Chúc Dung (thuyết thứ hai từ Bạch Hổ thông nghĩa) Phục Hy – Thần Nông – Cộng Công (sách Thông giám ngoại kỷ) Ngũ Đế Theo Thượng thư – Tự, Đế vương thế kỷ và Thế bản của Tôn Thị Hồng, Ngũ đế là: Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao tân (Đế khốc), Đường Nghiêu, Ngu Thuấn. Ngoài ra còn nhiều quan điểm “Ngũ Đế” như sau: Hoàng Đế – Chuyên Húc – Đế Khốc – Đế Nghiêu – Đế Thuấn (theo Sử ký Tư Mã Thiên, Thế bản và Đại Đới ký) Thái Hạo – Viêm Đế – Hoàng Đế – Thiếu Hạo – Chuyên Húc (theo Sở Từ và Lễ ký nguyệt lệnh) Hữu Sào thị – Toại Nhân thị – Phục Hy thị – Nữ Oa thị – Thần Nông thị (theo Lễ kí và Hàn Phi tử) (Nguồn: https://bienniensu.com/trieu_dai_trung_quoc/tam-hoang-ngu-de/)
Tam Hoàng Ngũ Đế Hạ (~thế kỷ 21– ~thế kỷ 16 TCN)
Theo các tư liệu lịch sử, triều đại đầu tiên của Trung Quốc là nhà Hạ, tồn tại vào khoảng thế kỉ 21 đến thế kỉ 17 trước Công Nguyên.
Nhà Thương (~thế kỷ 17 – ~thế kỷ 11 TCN)
Tiếp đó là đến nhà Thương, tồn tại vào khoảng thế kỉ 17 đến thế kỉ 11 TCN. Nhà Thương bị nhà Chu chiếm,
Nhà Chu (~thế kỷ 11 – 256 TCN)
Thời gian trị vì của nhà Chu tương đối dài, phân làm hai giai đoan Tây Chu và Đông Chu, thời Đông Chu lại tiếp tục được phân thành hai giai đoạn nhỏ là thời Xuân Thu và Chiến Quốc- đây là thời kì các nước chư hầu nhà Chu hỗn chiến. Cuối cùng Tần Thủy Hoàng đã đứng ra thống nhất các nước chư hầu, lập ra nhà Tần vào năm 221 TCN, ông đã cho thống nhất chữ viết, tiền tệ và đơn vị đo lường, xây dựng Vạn Lí trường thành, tuy nhiên triều đại này chỉ tồn tại ngắn ngủi 15 năm.
Tây Chu (~thế kỷ 11 – 770 TCN)
Triều đại Trung Quốc: Tây Chu Thời Tây Chu là thời kỳ thứ nhất trong hai giai đoạn chính của vương triều nhà Chu, sau thời kỳ đó là Đông Chu. Đóng đóng đô ở đất Phong, đất Cảo (tỉnh Thiểm Tây bây giờ). Thời Tây Chu là thời kỳ phát đạt của xã hội nô lệ, tổng cộng có 12 vị vua, trong đó có 9 người chết do bệnh tật, một người bị giết do mất nước, một người bị nhân dân bạo động bắt làm tù binh đuổi ra khỏi đô thành nên chết, một người bị chết đuối do nhân dân làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có Văn Vương và Chu Công bị bệnh chết.
Đông Chu (770 TCN - 256 TCN)
Thời Đông Chu là giai đoạn thứ hai của vương triều nhà Chu tính từ năm 770 TCN, trước đó là thời Tây Chu. Bắt đầu từ lúc Chu Bình Vương dời đô đến Lạc Ấp đến năm 256 TCN bị nhà Tần diệt vong. Thời Đông Chu lại chia làm hai thời kỳ nữa: + Thời Xuân Thu tính từ năm đầu tiên của Chu Bình Vương (năm 770 TCN) đến năm 44 của Chu Kính Vương (476 TCN). + Thời Chiến Quốc tính từ năm thứ nhất của Chu Nguyên Vương (475 TCN) đến năm đầu tiên Tần Thủy Hoàng (221 TCN) sau vài năm Đông Chu bị diệt vong (256 TCN). Các vị vua thời Đông Chu (Xuân Thu – Chiến Quốc) có 25 người, trong đó 21 người chết vì bệnh tật, một người mất nước đầu hàng đi bôn ba bị chết, một người do thương con chết yểu nên buồn rầu mà chết, 2 người chết trong nội chiến. Ngoài ra còn có Vương Tử Cơ Hồ bị giết trong nội chiến. Các chư hầu thuộc các nước chư hầu thời Đông Chu vì không thuộc phạm vi nên không kể ra. Chỉ liệt kê ra Ngũ Bá thời Xuân Thu và Thất Hùng thời Chiến Quốc. Thời kỳ đầu thời Tây Chu phong 800 chư hầu đến thời Xuân Thu chỉ thấy trong thư tịch ghi là 140 người.
Xuân Thu (770 – 476 TCN)
Xuân Thu (từ 771 đến 476 TCN trong lịch sử Trung Quốc. Tên của nó bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu (Biên niên sử Xuân Thu), một cuốn sử mà theo truyền thống thường được coi là của Khổng Tử. Ở giai đoạn Xuân Thu, quyền lực được tập trung hoá. Giai đoạn này xảy ra rất nhiều các trận chiến và sự sáp nhập khoảng 170 nước nhỏ. Sự sụp đổ dần dần của giới thượng lưu dẫn tới sự mở rộng học hành; trí thức gia tăng lại thúc đẩy tự do tư tưởng và tiến bộ kỹ thuật. Tiếp sau giai đoạn này là thời Chiến Quốc. Ở thời điểm đó Trung Quốc vẫn chưa được coi là một đế quốc. Và tới tận khi vị hoàng đế đầu tiên của nhà Tần, và cũng là vị hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc lên ngôi thì nước này mới bắt đầu giai đoạn phong kiến tập quyền. Dưới thời nhà Chu, trung tâm của quyền lực nằm trong tay (hay được cho là như vậy) vị vua nhà Chu dưới hình thức phong kiến phân quyền. Cần lưu ý Tần Thuỷ Hoàng thấy rằng hệ thống phong kiến cuối cùng sẽ dẫn tới một vị vua ít quyền lực và một tình thế hỗn loạn. Vì vậy, ông đã dựng lên một Trung Quốc với một thể chế tập trung mạnh mẽ không dựa vào lòng trung thành của các quận công địa phương.
Chiến Quốc (476 – 221 TCN)
Thời đại Chiến Quốc kéo dài 34 năm từ khoảng thế kỷ 5 TCN tới khi Trung Quốc thống nhất dưới thời Tần năm 221 TCN. 403 TCN – năm mà nước Tấn bị chia thành ba nước Hàn, Triệu, Ngụy Thời Chiến Quốc, trái với thời Xuân Thu, là một giai đoạn mà các vua chư hầu ở địa phương sáp nhập các tiểu quốc nhỏ hơn xung quanh để củng cố quyền lực. Quá trình này đã bắt đầu ở thời Xuân Thu, và tới thế kỷ 3 TCN, bảy nước lớn nổi lên chiếm vị trí áp đảo. Bảy nước lớn thời Chiến Quốc, gồm có Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Nguỵ và Tần. Giai đoạn Chiến Quốc là giai đoạn phát triển của đồ sắt tại Trung Quốc, thay thế đồ đồng trở thành vật liệu chính được sử dụng trong chiến tranh. Những bức tường do những quốc gia xây dựng nên để ngăn chặn các bộ lạc du mục phía bắc và ngăn chặn lẫn nhau là tiền thân của Vạn lý trường thành sau này. Các triết thuyết khác nhau đã được phát triển trong giai đoạn Bách gia chư tử, gồm Khổng giáo (được phát triển chi tiết bởi Mạnh Tử), Đạo giáo (được phát triển thêm bởi Trang Tử), Pháp gia (do Hàn Phi Tử lập ra) và Mặc học (được Mặc Tử sáng lập). Cũng ở đầu giai đoạn này, nhà chiến lược quân sự Tôn Vũ đã viết cuốn Tôn Tử binh pháp được công nhận là tác phẩm có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong 7 tác phẩm về nghệ thuật quân sự Trung Quốc cổ đại. (Bảy tác phẩm quân sự kinh điển (thất đại kỳ thư) gồm: Lục thao của Thái Công, Tôn Tử binh pháp, Tư Mã binh pháp, Ngô Khởi, binh pháp, Uất Liêu Tử binh pháp, Tam lược của Hoàng Thạch Công, Đường Thái Tông và Lý Vệ công vấn đáp). Trong suốt lịch sử phong kiến Trung Quốc, thất đại kỳ thư này được cất giấu cẩn thận và chỉ những ai theo nghề binh mới được tiếp cận chúng.
Nhà Tần (221 TCN – 206 TCN)
Thời Hồng Bàng
Sau khi tiêu diệt 6 nước Sơn Đông, thống nhất Trung Quốc và lên ngôi hoàng đế, Tần Thủy Hoàng tiếp tục ý định mở rộng lãnh thổ về phía nam, Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang 50 vạn quân tiếp tục đánh chiếm những vùng đất phía nam. Cuộc chiến kết thúc năm 208 TCN và "kéo dài 10 năm", xác định rằng thời điểm Tần Thủy Hoàng phát binh đánh Bách Việt khoảng năm 218 - 217 TCN.
Cuộc chiến chống Tần của người Bách Việt kéo dài trong khoảng 10 năm, trong đó người Âu Việt đụng độ quân Tần trong khoảng 6 năm (từ năm 214 TCN). Các tộc người Đông Việt, Mân Việt, Nam Việt… đã bị chinh phục nhưng người Âu Việt đã chiến thắng. Bước nam tiến của nhà Tần bị chặn lại sau thiệt hại nặng trong cuộc đụng độ này cùng cái chết của tướng Đồ Thư. Theo các sử gia Việt Nam hiện đại, gần như cùng thời điểm đó, sau cuộc chiến chống Tần thắng lợi, thủ lĩnh người Việt là Thục Phán đã thay thế Hùng Vương của nước Văn Lang, thống nhất Âu Việt và Lạc Việt, thành lập nước Âu Lạc vào khoảng năm 207 TCN.
Nhà Hán (202 TCN – 220 CN)
Sau khi nhà Tần sụp đổ vào năm 207 TCN thì đến thời nhà Hán kéo dài đến năm 220 CN. Nhà Hán suy yếu, Trung Quốc bước vào thời kì Tam Quốc phân tranh với ba nước Ngụy, Thục, Ngô. Về mặt quân sự, Ngụy là mạnh nhất trong số ba nước, một sức mạnh được nâng đỡ nhờ kinh tế và các cảng biển. Nước Thục có dân cư thưa thớt hơn, và là một vùng đa phần là rừng, với nhiều bộ tộc không phải là người Hán. Nhà Hán là hoàng triều thứ hai trong lịch sử Trung Quốc, do thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân chống nhà Tần là Lưu Bang thành lập và được cai trị bởi gia tộc họ Lưu. Tiếp nối nhà Tần (221 TCN – 206 TCN) tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn ngủi và thời kỳ Chiến tranh Hán – Sở vô quân chủ, nhà Hán bị gián đoạn giai đoạn ngắn khi nhiếp chính Vương Mãng tiếm quyền, lập nên nhà Tân (9 – 23). Nó tồn tại qua hai thời kỳ – Tây Hán (206 – 9) và Đông Hán (23 – 220) – trước khi thời kỳ Tam Quốc mở ra. Trải dài hơn bốn thế kỷ, nhà Hán được coi là triều đại hoàng kim trong lịch sử Trung Quốc, ảnh hưởng mạnh mẽ đến bản sắc nền văn minh Trung Hoa cho tới mãi về sau.[4] Ngày nay, nhóm dân tộc đa số ở Trung Quốc tự gọi mình là "Hán nhân", tiếng Trung được gọi là "Hán ngữ" và chữ viết Trung Quốc được gọi là "Hán tự".[5] Hoàng đế là người có địa vị cao nhất trong hệ thống thứ bậc xã hội thời nhà Hán. Ông nắm quyền tối cao trong bộ máy chính quyền nhà Hán, chia sẻ quyền lực với giới quý tộc và các đại thần phần lớn xuất thân từ tầng lớp học giả thân sĩ. Với việc kế thừa có cải cách đơn vị hành chính cấp quận từ nhà Tần và xác lập một số vương quốc bán tự trị, Đế quốc Hán được phân chia thành nhiều khu vực do chính quyền trung ương trực tiếp kiểm soát. Theo thời gian, các vương quốc bán tự trị dần mất đi hoàn toàn tính độc lập, đặc biệt là sau Loạn bảy nước. Từ thời Hán Vũ Đế (trị. 141 TCN – 87 TCN) trở đi, triều đình Trung Quốc chính thức bảo trợ Nho giáo trong giáo dục và triều chính, tổng hợp hệ tư tưởng này với thuyết vũ trụ học của các học giả như Đổng Trọng Thư. Chính sách bảo trợ Nho giáo tiếp tục tồn tại mãi tới khi nhà Thanh (1636 – 1912) sụp đổ vào năm 1912. Kinh tế nhà Hán thịnh vượng, chứng kiến sự phát triển đáng kể của nền kinh tế tiền tệ vốn đã được thiết lập từ thời nhà Chu (1122 TCN – 249 TCN). Tiền xu do chính quyền trung ương đúc, phát hành vào năm 119 TCN, vẫn là tiền xu tiêu chuẩn ở Trung Quốc cho đến thời nhà Đường (619 – 907). Thể chế chính trị nhà Hán có nhiều đổi mới. Để tài trợ cho các chiến dịch quân sự và hoạt động bình định các vùng biên cương mới chinh phục, chính quyền nhà Hán quốc hữu hóa công nghiệp muối và sắt tư nhân vào năm 117 TCN. Tuy nhiên, tới thời Đông Hán, chính sách độc quyền nhà nước này lại bị bãi bỏ. Khoa học và công nghệ thời nhà Hán có nhiều phát kiến đáng kể như quy trình làm giấy, bánh lái đuôi tàu thủy, việc sử dụng số âm trong toán học, bản đồ địa hình, hỗn thiên nghi chạy bằng thủy lực dùng cho thiên văn học và một loại địa chấn kế sử dụng con lắc ngược, có thể xác định được hướng chính của một trận động đất từ khoảng cách xa. Năm 200 TCN, liên minh du mục thảo nguyên Hung Nô đánh bại nhà Hán, buộc nhà Hán phải phục tùng như một đối tác chiếu dưới trong vài thập kỷ, nhưng đồng thời vẫn tiếp tục tấn công quân sự biên cương nhà Hán.[6] Hán Vũ Đế phát động một chuỗi chiến dịch quân sự chống lại Hung Nô. Chiến dịch thắng lợi cuối cùng đã giúp nhà Hán ép Hung Nô phải chấp nhận địa vị chư hầu triều cống. Nhờ chuỗi chiến dịch chinh phạt mà nhà Hán mở rộng chủ quyền và quyền kiểm soát Lòng chảo Tarim ở Trung Á, tách Hung Nô thành hai liên minh riêng biệt, thiết lập được một mạng lưới thương mại rộng khắp gọi là Con đường Tơ lụa, vươn tới tận thế giới Địa Trung Hải. Trong khi đó, biên cương phía bắc nhà Hán lại bị liên minh du mục Tiên Ti nhanh chóng lấn chiếm. Hán Vũ Đế mở mang bờ cõi về phía nam thành công, sáp nhập nước Nam Việt vào năm 111 TCN và nước Điền vào năm 109 TCN, thành lập hai quận Huyền Thố và Lạc Lãng trên Bán đảo Cao Ly vào năm 108 TCN. Sau năm 92, hoạn quan trong cung can dự triều chính ngày một nhiều, tham gia những cuộc tranh giành quyền lực tàn khốc giữa các nhóm ngoại thích khác nhau, góp phần khiến nhà Hán diệt vong. Một số giáo phái Đạo giáo quy mô lớn thách thức hoàng quyền, kích động Khởi nghĩa Khăn vàng và Khởi nghĩa Ngũ đấu mễ đạo. Sau cái chết của Hán Linh Đế (trị. 168 – 189), sĩ quan quân đội tàn sát hoạn quan trong cung, cho phép giới quý tộc và các thế lực quân sự địa phương chuyển mình thành các lãnh chúa xé toạc đế quốc làm nhiều mảnh. Khi Ngụy vương Tào Phi cướp ngôi Hán Hiến Đế, nhà Hán chính thức không còn tồn tại.
Chiến tranh Hán - Lĩnh Nam (42-43):
Năm 40 sau công nguyên, thì cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng là người Việt nổi dậy, phần đất thuộc bộ Giao Chỉ (gồm 4 quận Hợp Phố tức Quảng Tây, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) tách ra khỏi lãnh thổ nhà Đông Hán, trở thành một vùng đất độc lập. Trưng Trắc và Trưng Nhị lấy đất Mê Linh làm kinh đô, phong chức quyền cho những người cùng tham gia khởi nghĩa. Chính quyền của 2 bà tuy còn sơ khai nhưng cũng đã là một nhà nước độc lập, tự chủ.
Tới năm 42 sau công nguyên, nhà Hán - Trung Quốc do Mã Viện cầm đầu đã đưa quân sang đánh, chính quyền của Hai Bà Trưng bị thất bại, người Việt lại tiếp tục bị Trung Quốc đô hộ.
Con đường tơ lụa
Con Đường Tơ lụa là một hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu. Con đường tơ lụa to lớn bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh, Trường An (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận toàn châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Triều Tiên và Nhật Bản (Và thậm chí là ở 2 miền Bắc-Nam Việt Nam). Nó có chiều dài khoảng 4.000 dặm, hay là 6.437 km. Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới, xuất hiện ít nhất là khoảng 5.300 năm trước. Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quý tộc, sau này lụa tơ tằm được đưa đi các vùng. Con đường tơ lụa dần dần được hình thành từ đó. Thế kỷ 2 trước Công Nguyên, Trương Khiên nhận lệnh từ Hán Vũ Đế đi về phía Tây tìm người Nguyệt Chi nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đã tìm được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Trên đường về ông cùng tùy tùng đã mang theo nhiều sản vật mà triều đình rất quan tâm. Nhờ đó những tuyến đường nhỏ trước đây đã được kết nối lại với nhau, nhiều tuyến mới được khai phá và an toàn hơn do được sự bảo vệ của triều đình. Tuyến đường mà Trương Khiên đã khai phá được người đời sau gọi là Con đường tơ lụa. Con đường tơ lụa được hình thành từ thế kỷ 2 TCN nhưng ban đầu, con đường này được thành lập với ý định quân sự nhiều hơn mục tiêu thương mại. Muốn tìm được những đồng minh nhằm khống chế bộ lạc Hung Nô, năm 138 TCN, vua Hán Vũ Đế đã cử Trương Khiên đi về phía Tây với chiếu chỉ ngoại giao trong tay, nhưng không may Trương Khiên đã bị chính bộ lạc Hung Nô bắt và giam giữ. Sau 10 năm bị bắt giữ, Trương Khiên trốn khỏi trại và vẫn tiếp tục nhiệm vụ, ông hành trình về Trung Á, Tây Vực. Tiếp kiến biết bao vị thủ lĩnh ở khu vực này nhưng chẳng ai chịu giúp nhà Hán cả. Năm 126 TCN, Trương Khiên trở về nước. Tuy thất bại nhưng với những kiến thức và thông tin thu được, ông đã viết cuốn sách Triều dã kim tài trong đó đề cập đến những vùng đất ông đã đặt chân tới, vị trí địa lý, phong tục tập quán, sản vật, hàng hóa và đặc biệt là tiềm năng giao thương. Triều dã kim tài đã kích thích mạnh các thương gia Trung Hoa. Sau đó Con đường tơ lụa dần được hình thành, người Trung Hoa mang vải lụa, gấm vóc, sa, nhiễu... đến Ba Tư và La Mã đồng thời những doanh nhân các vùng khác cũng tìm đường đến với Trung Hoa. Thời kỳ đầu, những bậc đế vương và những nhà quý tộc của La Mã thích lụa Trung Hoa đến mức họ cho cân lụa lên và đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân nặng tương đương. Chuyện cũng nói rằng Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra lúc đó chỉ diện váy lụa Trung Quốc mà thôi. Chính trị thời đó cũng có ảnh hưởng lớn đến Con đường tơ lụa. Khi nhà Hán suy vong vào thế kỷ 3, Con đường tơ lụa cũng bị đình lại. Năm 607, quan viên nhà Tùy là Bùi Củ trở về sau khi thực hiện một chuyến vi hành các nước Tây Vực, và do biết rằng Dạng Đế đang tìm kiếm các mục tiêu để tiến hành chinh phục, Bùi Củ đề xuất với Dạng Đế rằng các nước Tây Vực có rất nhiều châu báu và rằng sẽ dễ dàng thôn tính Thổ Dục Hồn. Do vậy, Dạng Đế bắt đầu tính đến việc tấn công Thổ Dục Hồn để mở ra con đường tơ lụa. Năm 608, Bùi Củ đã thuyết phục các bộ tộc Thiết Lặc tấn công Thổ Dục Hồn, quân Thiết Lặc đại phá quân Thổ Dục Hồn. Mộ Dung Phục Doãn đưa các thần dân chạy về phía đông, vào Tây Bình quận (gần tương ứng với Tây Ninh, Thanh Hải ngày nay), khiển sứ thỉnh hàng cầu cứu Tùy Dạng Đế. Dạng Đế phái An Đức vương Dương Hùng (楊雄) và Hứa công Vũ Văn Thuật (宇文述) đến tiếp ứng cho Mộ Dung Phục Doãn. Tuy nhiên, khi quân của Vũ Văn Thuật đến Lâm Khương thành, Mộ Dung Phục Doãn trở nên sợ hãi trước sức mạnh của quân Tùy và quyết định chạy trốn về phía tây. Vũ Văn Thuật dẫn binh truy kích, chiếm được hai thành Mạn Đầu và Xích Thủy, chém được trên 3000 thủ cấp, bắt được 200 quý tộc và 4.000 hộ Thổ Dục Hồn mới về. Mộ Dung Phục Doãn chạy về tây nam đến vùng núi tuyết hoang vu, đất cũ của Thổ Dục Hồn rộng 4000 lý theo chiều đông tây và 2000 lý theo chiều bắc nam rơi vào tay nhà Tùy. Triều đình Tùy đặt 4 quận: Thiện Thiện, Thả Mạt, Tây Hải, Hà Nguyên để quản lý hành lang Hà Tây, đưa những tội nhân đến đày ở đất này. Năm 609, Mộ Dung Phục Doãn đã dẫn quân thoát ra khỏi vùng núi tuyết và đoạt lại đất đai bị mất, sang tháng 5 ÂL, Dạng Đế thân chinh tấn công Thổ Dục Hồn. Quân của Dạng Đế mặc dù gặp những thất bại nhỏ song đã một lẫn nữa buộc Mộ Dung Phục Doãn phải chạy trốn, tái khẳng định quyền kiểm soát của Tùy đối với các vùng đất cũ của Thổ Dục Hồn. Có trong tay Mộ Dung Thuận, Dạng Dế phong người này làm khả hãn, dưới sự trợ giúp của Đại Bảo vương Ni Lặc Chu (尼洛周), tiến về phía tây để cố nắm quyền kiểm soát đối với người Thổ Dục Hồn. Tuy nhiên, đến Tây Bình quận thì Ni Lặc Chu bị bộ hạ sát hại, và Mộ Dung Thuận lại trở về Tùy. Cùng năm 609, sau khi diệt Thổ Dục Hồn, Tùy Dạng Đế đến Trương Dịch chiêu kiến quân chủ các nước Tây Vực. Kết quả, quân chủ và đại thần của 27 nước Tây Vực đến dự yến, như Cao Xương vương Khúc Bá Nhã. Để thể hiện sự giàu có đầy đủ của quốc gia, vào tết Nguyên Tiêu năm 610, Tùy Dạng Đế ở đông đô cho biểu diễn nhạc vũ tạp kỹ chiêu đãi các thương nhân người Tây Vực, giữa đêm đốt đèn chiếu sáng như ban ngày, trăng lặn mới thôi. Đồng thời mời người Tây Vực uống rượu no say, người Tây Vực qua đó nhận thấy sự phô trương xa hoa quá độ của Tùy Dạng Đế cùng sự giàu có của nhà Tùy nên về sau càng ra sức tiến hành giao thương mậu dịch, nhờ đó triệt để mở ra con đường tơ lụa đã bị đóng lại hơn ba trăm năm từ thời Ngụy Tấn Nam - Bắc triều. Khi nhà Đường hưng thịnh, tiếp tục kế thừa cùng phát triển con đường tơ lụa này. Cũng vào thời Đường, do thấy được giá trị của con đường giao thương Đông - Tây này, các vị hoàng đế đã ban hành hàng loạt những chiếu chỉ nhằm khuyến khích thương mại và cũng từ đó, những nhà truyền giáo đã bắt đầu tìm đến với phương Đông. Con đường tơ lụa dưới triều Đường đã trở thành một điểm nhấn rõ nét trong lịch sử thương mại thế giới. Đến thế kỷ 10, nhà Đường bị lật đổ, Con đường tơ lụa cũng bị suy thoái dần. Tuy nhiên với sự hùng mạnh của đế quốc Nguyên Mông, công việc buôn bán sau đó lại thịnh vượng. Dưới triều Nguyên, một người Ý nổi tiếng là Marco Polo (1254-1324) đã lưu lạc đến Trung Quốc và làm quan ở đây 20 năm, sau đó ông trở về nước bằng Con đường tơ lụa. Ông cũng là người có đóng góp cho sự phát triển của mối giao thương Đông - Tây khi viết nên cuốn sách Marco Polo du ký (tiếng Ý: Il Milione) kể về toàn bộ quá trình lưu lạc đến phương Đông của mình trong đó có đề cập đến những chuyến hàng đầy ắp sản vật trên Con đường tơ lụa. Nhưng đến giữa thời nhà Minh, Con đường tơ lụa đã bị vương triều này khống chế và bắt mọi người phải nộp thuế rất cao cũng như vương triều này chủ trương đóng cửa đất nước ở cả trên bộ lẫn trên biển và bế quan tọa cảng khiến cho những thương gia nước ngoài phải tìm đến những con đường vận chuyển bằng đường biển hoặc không giao thương với nước Trung Hoa nữa hoặc cả 2. Với việc giao thương qua đường biển phát triển (hình thành Con đường tơ lụa trên biển). Từ thế kỷ thứ 7, Quảng Châu đã được xem là nơi khởi đầu của Con đường tơ lụa trên biển. Trước tiên là các thương gia Ả Rập và sau đó là Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan lần lượt kéo đến giao lưu buôn bán và trao đổi. Quảng Châu tràn ngập hàng hoá của nước ngoài và bản địa, Con đường tơ lụa trên bộ dần dần biến mất. Hồi chuông cáo chung của Con đường tơ lụa này vang lên cũng là lúc người Ba Tư (Iran ngày nay) đã dần học được cách làm tơ lụa của người Trung Hoa và việc trung chuyển tơ lụa từ đó giảm hẳn do người Ba Tư tự làm và bán trực tiếp cho La Mã chứ không nhập khẩu từ nước Trung Hoa nữa. Trong những chuyến khảo cổ sau này, người ta đã tìm ra khoảng 50.000 cổ vật nằm rải rác trên Con đường tơ lụa. Chúng là những hiện vật vô giá về lịch sử thương mại thời xưa. Con đường tơ lụa với những chuyến hàng đầy ắp đã trở thành dĩ vãng, những dấu chân lạc đà giờ đã bị cát bụi sa mạc xóa nhòa nhưng cái tên "Con đường tơ lụa" sẽ còn mãi trong lịch sử như một cây cầu kết nối ngoại thương giữa hai nền văn minh Trung Quốc và La Mã. Dọc theo Con đường tơ lụa có sự hoà trộn và biến hoá trong đức tin tại các địa phương khác nhau đã làm nảy sinh nhiều kiểu đạo Phật khác nhau và có khi không hề giống với đạo Phật nguyên thủy tại Ấn Độ. Từ kỹ thuật nấu rượu tới Phật giáo và thường được "đổi" bằng hàng hóa, sản vật, người Trung Hoa chuyển đi tơ lụa, thuốc súng, giấy và gốm sứ bằng Con đường tơ lụa. Đổi lại, những kiến thức về thiên văn học giúp Trung Quốc làm sâu thêm những hiểu biết của mình về vũ trụ. Những bản vẽ Mặt Trăng, ngôi sao đã chứng tỏ sự khao khát tìm tòi của người Trung Hoa về vũ trụ. Một tấm bản đồ tìm được ở Đôn Hoàng, Cam Túc làm người ta phải ngạc nhiên: toàn bộ 1.500 vì sao mà con người biết đến 8 thế kỷ sau này đều giống với những gì đã được tả trong tấm bản đồ đó. Bất chấp vô số những kỳ quan phương Đông mà các thương gia phương Tây đã miêu tả trong các chuyến đi dọc theo Con đường tơ lụa, vẫn có rất nhiều người hoài nghi việc con đường đó có thực sự tồn tại hay không. Chỉ sau khi cha con nhà thám hiểm người Venezia - Niccolò Polo và Marco Polo - trở về sau chuyến hành trình thứ hai, người ta mới bắt đầu tin rằng Con đường tơ lụa là có thật.
Năm 200 TCN, liên minh du mục thảo nguyên Hung Nô đánh bại nhà Hán, buộc nhà Hán phải phục tùng như một đối tác chiếu dưới trong vài thập kỷ, nhưng đồng thời vẫn tiếp tục tấn công quân sự biên cương nhà Hán.[6] Hán Vũ Đế phát động một chuỗi chiến dịch quân sự chống lại Hung Nô. Nhờ chuỗi chiến dịch chinh phạt mà nhà Hán mở rộng chủ quyền và quyền kiểm soát Lòng chảo Tarim ở Trung Á, tách Hung Nô thành hai liên minh riêng biệt, thiết lập được một mạng lưới thương mại rộng khắp gọi là Con đường Tơ lụa, vươn tới tận thế giới Địa Trung Hải.
Tây Hán (202 TCN – 9)
Hoàng triều đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc là nhà Tần (221 TCN – 207 TCN). Dù đã chinh phục và thống nhất toàn bộ quốc gia thời Chiến quốc, nhà Tần lâm vào tình trạng bất ổn chính trị ngay sau cái chết của vị hoàng đế đầu tiên Tần Thủy Hoàng. Chỉ trong vòng bốn năm, quyền lực hoàng triều tiêu tan trước áp lực từ nhiều cuộc nổi loạn.[8] Hai nhà cựu lãnh đạo phiến quân là Sở vương Hạng Vũ và Hán vương Lưu Bang, bước vào một cuộc chiến phân định xem ai sẽ là người làm chủ Trung Quốc, giờ đây đã chia thành 18 tiểu quốc đều tuyên bố trung thành với Hạng Vũ hoặc Lưu Bang.[9] Mặc dù tự khẳng định bản thân là một nhà chỉ huy tài ba, Hạng Vũ vẫn bị Lưu Bang đánh bại tại Trận Cai Hạ vào năm 202 TCN. Theo lời thúc giục của bề tôi, Lưu Bang xưng hiệu "hoàng đế", trở thành Hán Cao Tổ (trị. 202 TCN – 195 TCN).[10] Trường An được chọn làm kinh đô mới của Đế quốc Hán thống nhất.[11] Đầu thời Tây Hán, một phần ba lãnh thổ đế quốc ở phía tây chia thành 13 quận do trung ương trực tiếp quản lý. Trong khi đó, hai phần ba lãnh thổ đế quốc ở phía đông chia thành 10 vương quốc bán tự trị.[12] Để phủ dụ các tướng lĩnh chiến hữu từng cùng chiến đấu với nước Sở, Hán Cao Tổ phong vương cho một vài người trong số họ. Đến năm 196 TCN, triều đình nhà Hán thay thế gần như tất cả vị vương trên khắp đế quốc (trừ Trường Sa) bằng các hoàng thân họ Lưu, vì ngờ vực lòng trung thành của những người không mang trong mình dòng máu hoàng gia.[12] Sau một số cuộc nổi loạn của các vị vương – lớn nhất là Loạn bảy nước – triều đình ban hành hàng loạt cải cách bắt đầu từ năm 145 TCN, nhằm hạn chế quy mô và quyền lực của các vương quốc bán tự trị, chia chúng thành nhiều quận mới do trung ương kiểm soát.[13] Các vị vương bị tước quyền tự bổ nhiệm nhân sự, nhiệm vụ này sẽ do triều đình đảm nhận.[14][15] Trên danh nghĩa, họ là người đứng đầu vùng đất phong của riêng mình, biến một phần thuế thu trong lãnh địa thành thu nhập cá nhân.[14][15] Các vương quốc không bao giờ bị xóa bỏ hoàn toàn và tiếp tục tồn tại trong suốt phần còn lại của hai thời kỳ Tây Hán và Đông Hán
Nhà Tân (9 – 23)
Nhà Tân (Tân triều) (9-23) là một triều đại tiếp sau nhà Tây Hán và trước nhà Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc. Vị hoàng đế duy nhất của nhà Tân là Vương Mãng. Từ khi hoàng hậu Vương Chính Quân, vợ vua Hán Nguyên Đế đắc sủng, ngoại thích họ Vương bắt đầu tham gia triều chính: các anh em Vương hoàng hậu là Vương Phượng, Vương Căn, Vương Thương, Vương Lập, Vương Âm được phong làm đại thần trong triều. Một người em khác của Vương hậu là Vương Mạn mất sớm, con là Vương Mãng khi lớn cũng được đưa vào triều làm quan. Nhờ chăm chỉ học hành và tỏ ra khiêm tốn, liêm khiết, hết lòng vì việc công, gạt bỏ những chuyện riêng tư, Vương Mãng được sự tín nhiệm của mọi người[1]. Ông lần lượt thăng tiến vào các chức vụ quan trọng trong triều, kế tục các chức: Năm 16 TCN làm Kỵ đô uý, năm 8 TCN thăng lên Đại Tư mã[2]. Khi Hán Thành Đế qua đời không có con nối, một người trong tông thất, cháu trai của bà Vương Chính Quân là Hán Ai Đế lên ngôi (7 TCN), lực lượng ngoại thích mới vào triều nắm quyền. Vương Mãng thất thế trong cuộc đấu tranh quyền lực và phải rút lui khỏi chính trường một thời gian. Ông bắt đầu lấy lại quyền lực sau cái chết của Hán Ai Đế vào năm 1 TCN. Hán Ai Đế hoang dâm và mất sớm, Vương Mãng nhanh chóng trở lại chính trường với sự hậu thuẫn của cô Vương Chính Quân vẫn còn ảnh hưởng trong triều đình. Ông lần lượt loại bỏ các phe cánh ngoại thích mới của họ Phó, họ Đinh và họ Vệ, một mình nắm quyền. Ông dựng các vị vua thiếu niên lên ngôi để dễ khống chế. Sau nhiều năm thăng tiến, khuynh loát quyền hành trong triều, Vương Mãng cuối cùng ông đã đầu độc Hán Bình Đế (năm 5) và phế Hán Nhũ Tử (Lưu Anh), lên ngôi hoàng đế vào năm 8 (năm 9 theo dương lịch)
Đông Hán (25 – 220)
Ngày 5 tháng 8 năm 25, Hán Quang Vũ Đế lên ngôi hoàng đế, khởi đầu thời Đông Hán (25 – 220).[72] Suốt thời gian hoàng quyền Vương Mãng lung lay, Cao Câu Ly tự do đột kích bốn quận thuộc địa nhà Hán trên Bán đảo Cao Ly. Tới năm 30, nhà Hán mới tái khẳng định được quyền kiểm soát khu vực này.[73] Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống nhà Hán ở Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này bị tướng Hán Mã Viện dập tắt trong một chiến dịch năm 42 – 43.[74] Vương Mãng tái thiết lập thái độ thù địch với người Hung Nô. Nhà Hán tiếp tục lạnh nhạt với Hung Nô cho tới khi thủ lĩnh Hung Nô là Bỉ, đối thủ tranh chấp ngai vị với em họ Bồ Nô, đồng ý trở thành chư hầu triều cống vào năm 50. Điều này khiến Hung Nô bị chia thành hai liên minh đối địch nhau: Nam Hung Nô do Bỉ lãnh đạo, đồng minh của nhà Hán, và Bắc Hung Nô do Bồ Nô lãnh đạo, xem nhà Hán là kẻ thù.[75][76] Thời Vương Mãng, Trung Quốc cũng đánh mất quyền kiểm soát Lòng chảo Tarim. Năm 63, Bắc Hung Nô chinh phục Lòng chảo Tarim, dùng đây làm căn cứ địa tấn công Hành lang Hà Tây ở Cam Túc.[77] Năm 73, trong Trận Y Ngô Lư, Đậu Cố đánh bại Bắc Hung Nô. Ông ép người Hung Nô tháo chạy khỏi Thổ Lỗ Phiên và truy đuổi họ tới tận hồ Ba Lý Khôn trước khi cắm một đơn vị đồn trú tại Cáp Mật.[78] Sau khi Tây Vực đô hộ Trần Mục bị đồng minh Hung Nô ở Yên Kỳ và Quy Từ giết, đơn vị đồn trú tại Cáp Mật cũng rút lui.[79] Năm 89, trong Trận Altai, Đậu Hiến đánh bại thiền vu Bắc Hung Nô, buộc ông ta tháo chạy tới dãy núi Altai.[80] Sau khi Bắc Hung Nô dời đến lưu vực sông Y Lê vào năm 91, người du mục Tiên Ti liền chiếm đóng vùng lãnh thổ trải dài từ biên giới Vương quốc Phù Dư ở Mãn Châu đến sông Y Lê của người Ô Tôn.[81] Lãnh thổ của người Tiên Ti bành trướng cực đại dưới thời Đàn Thạch Hòe, người liên tục đánh bại quân đội nhà Hán. Tuy nhiên, liên minh của Đàn Thạch Hòe sớm tan rã ngay sau khi ông qua đời.[82] Ban Siêu tranh thủ sự trợ giúp từ Đế quốc Quý Sương, chiếm đóng khu vực mà ngày nay là Ấn Độ, Pakistan, Afghanistan và Tajikistan hòng khuất phục Khách Thập và đồng minh Túc Đặc.[83] Tuy nhiên, khi nhà Hán từ chối yêu cầu thành lập liên minh hôn nhân vào năm 90, nhà cai trị Quý Sương Vima Kadphises liền điều quân tới Wakhan (Afghanistan) tấn công Ban Siêu. Xung đột kết thúc khi quân Quý Sương buộc phải rút lui vì thiếu nhu yếu phẩm.[83] Năm 91, chức Tây Vực đô hộ được tái lập và do chính Ban Siêu đảm nhiệm.[84]  Chữ khắc Đông Hán khắc trên một thỏi chì, dùng chữ Hy Lạp thôi lối Quý Sương, được khai quật ở Thiểm Tây, thế kỷ 1 – 2.[85]  Một mũi tên thời Tây Hán Trong số du khách nước ngoài đến Đông Hán có nhiều nhà sư biên dịch kinh Phật như An Thế Cao từ Parthia và Lâu-ca-sấm từ Càn-đà-la, Ấn Độ.[86] Ngoài nhận cống phẩm từ Quý Sương, Đế quốc Hán còn từng nhận quà từ Parthia, một vị vua Miến Điện và một nhà cai trị Nhật Bản. Năm 97, triều đình nhà Hán thử phái sứ giả Cam Anh tới Roma song không thành công.[87][88] Ngụy lược và Hậu Hán thư đều ghi chép về một sứ đoàn thừa mệnh hoàng đế Marcus Arelius, tiếp cận triều đình Hán Hoàn Đế (trị. 146 – 167) vào năm 166.[89] Tuy nhiên, Rafe de Crespgny lại khẳng định rằng sứ đoàn được đề cập trong hai tài liệu trên có thể chỉ là một nhóm thương nhân La Mã mà thôi.[90] Ngoài đồ thủy tinh và tiền xu La Mã ở Trung Quốc,[91] người ta còn tìm thấy huy chương La Mã từ thời Antonius Pius và Marcus Aurelius ở Óc Eo, Việt Nam.[92] Óc Eo nằm gần quận Nhật Nam (hay Giao Chỉ), nơi các nguồn Trung Quốc khẳng định là địa điểm đầu tiên mà người La Mã và một phái đoàn Thiên Trúc đặt chân khi đến nhà Hán vào hai năm 159 và 161.[93] Ngoài ra, Óc Eo cũng được cho là thành phố cảng "Cattigara" mà Ptolemaeus đã mô tả trong Geographia, nằm ở phía đông "Chersonesus Aurea" (bán đảo Mã Lai) dọc theo "Magnus Sinus" (vịnh Thái Lan và Biển Đông), nơi một thủy thủ Hy Lạp từng ghé thăm.[94][95] Thời Hán Chương Đế (trị. 75 – 88) được các học giả Đông Hán về sau đánh giá là giai đoạn cường thịnh cuối cùng của nhà Hán.[96] Từ sau thời Hán Chương Đế, hoạn quan can thiệp triều chính ngày một nhiều, tham gia nhiều cuộc tranh đoạt quyền lực khốc liệt giữa các nhóm ngoại thích.[97][98] Năm 92, với sự trợ giúp của hoạn quan Trịnh Chúng, Hán Hòa Đế (trị. 88 – 105) giam lỏng Đậu thái hậu, tước hết quyền lực mà gia tộc nhà bà đang nắm giữ. Hán Hòa Đế làm điều này để trả đũa việc Đậu thái hậu từng thanh trừng gia tộc và che giấu danh tính của Lương quý nhân, mẹ ruột hoàng đế.[99][100] Sau khi Hán Hòa Đế băng hà, Đặng thái hậu nhiếp chính giữa lúc nhà Hán lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính và cuộc khởi nghĩa của người Khương đang lan rộng.[101][102] Khi Đặng thái hậu qua đời, Hán An Đế (trị. 106 – 125) tin lời hai hoạn quan Lý Nhuận và Giang Kinh, cho rằng Đặng thái hậu và gia tộc nhà bà đã lên sẵn kế hoạch phế truất mình. Ông cách chức toàn bộ thành viên gia tộc họ Đặng, đày ải và buộc nhiều người trong số họ phải tự sát.[103][104] Sau khi Hán An Đế băng hà, Diêm thái hậu đưa con trai bà là Bắc Hương hầu Lưu Ý lên ngôi hòng duy trì quyền lực cho gia tộc nhà mình. Tuy nhiên, hoạn quan Tôn Trình đã đảo chính thành công, lập Lưu Bảo làm hoàng đế, tức Hán Thuận Đế (trị. 125 – 144). Diêm thái hậu bị quản thúc tại gia, người thân bị giết hoặc lưu đày, các đồng minh hoạn quan bị tàn sát.[105][106] Phụ chính Lương Ký, anh trai của Ý Hiên Lương hoàng hậu, giết chết anh rể Đặng Mãnh Nữ, người sau này trở thành hoàng hậu thứ hai, khi Đặng Mạnh Nữ phản kháng nỗ lực kiểm soát của ông. Sau đó, Hán Hoàn Đế (trị. 146 – 167) lợi dụng hoạn quan, hạ bệ và buộc Lương Ký phải tự sát.[107][108] Nho sinh trường Thái học đã tổ chức một cuộc biểu tình lớn phản đối hoạn quan trong triều.[109] Hán Hoàn Đế thì ngày càng xa cách bộ máy quan liêu khi khởi xướng nhiều dự án xây dựng hoành tráng và chiêu đãi hàng nghìn thê thiếp giữa thời điểm khủng hoảng kinh tế.[110][111] Lý Ưng và cộng sự ở trường Thái học bị bè lũ hoạn quan cầm tù vì tội phản quốc. Tới năm 167, họ mới được trả tự do khi Đại tướng quân Đậu Vũ thuyết phục thành công con rể Hán Hoàn Đế.[112] Dù là vậy, Hán Hoàn Đế vẫn cách chức vĩnh viễn Lý Ưng và cộng sự, khởi đầu lệnh cấm quan chức kết bè kéo cánh.[112] Sau khi Hán Hoàn Đế băng hà, Đậu Vũ và Thái phó Trần Phồn đã âm mưu tiến hành một cuộc đảo chính, hạ bệ ba đại hoạn quan Hầu Lãm, Tào Tiết và Vương Phủ. Khi âm mưu bị phanh phui, các hoạn quan lập tức bắt giữ Hoàn Tư Đậu hoàng hậu và Trần Phồn. Tướng Trương Hoán sủng ái hoạn quan, dẫn quân đối đầu với Đậu Vũ và môn khách ngay trước cổng hoàng cung. Hai bên cáo buộc lẫn nhau tội phản quốc. Khi từng môn khách dưới trướng lũ lượt theo phe Trương Hoán, Đậu Vũ buộc phải tự sát.[113] Dưới thời Hán Linh Đế (trị. 168 – 189), hoạn quan có thêm quyền thanh trừng quan chức kết bè kéo cánh, ngang nhiên bán đấu giá chức vụ cấp cao trong chính quyền.[114] Hán Linh Đế dành phần lớn thời gian chơi trò nhập vai với thê thiếp và tham gia các cuộc duyệt binh, giao hết việc nước cho hai hoạn quan Triệu Trung và Trương Nhượng
Ngày 5 tháng 8 năm 25, Hán Quang Vũ Đế lên ngôi hoàng đế, khởi đầu thời Đông Hán (25 – 220).[72] Suốt thời gian hoàng quyền Vương Mãng lung lay, Cao Câu Ly tự do đột kích bốn quận thuộc địa nhà Hán trên Bán đảo Cao Ly. Tới năm 30, nhà Hán mới tái khẳng định được quyền kiểm soát khu vực này
Năm 40, Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống nhà Hán ở Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này bị tướng Hán Mã Viện dập tắt trong một chiến dịch năm 42 – 43.[74] Vương Mãng tái thiết lập thái độ thù địch với người Hung Nô. Nhà Hán tiếp tục lạnh nhạt với Hung Nô cho tới khi thủ lĩnh Hung Nô là Bỉ, đối thủ tranh chấp ngai vị với em họ Bồ Nô, đồng ý trở thành chư hầu triều cống vào năm 50. Điều này khiến Hung Nô bị chia thành hai liên minh đối địch nhau: Nam Hung Nô do Bỉ lãnh đạo, đồng minh của nhà Hán, và Bắc Hung Nô do Bồ Nô lãnh đạo, xem nhà Hán là kẻ thù.
Tam Quốc (220 – 280)
Tào Ngụy (220 – 266)
Vào thời điểm nhà Hán suy yếu, khu vực Bắc Trung Quốc thuộc quyền kiếm soát của Tào Tháo. Nước Ngụy manh nha hình thành từ cuối thời Đông Hán. Vào năm 213, Tào Tháo được Hán Hiến Đế Lưu Hiệp phong làm "Ngụy Công" (thực chất là ép Hiến Đế phong) và được trao quyền sở hữu Ngụy quận và 9 quận thuộc Ký châu làm nước riêng, đóng thủ phủ ở Nghiệp Thành. Nước Ngụy của Tào Tháo với tư cách là một nước chư hầu nằm trong lãnh thổ nhà Hán bắt đầu hình thành. Tháng 11 năm 213, Tào Tháo thiết lập một bộ máy triều đình nước Ngụy riêng biệt, có Thượng thư lệnh, Thị trung và 6 viên khanh. Chung Do được cử làm Tướng quốc. Năm 216, Tào Tháo ép Hiến Đế phong làm "Ngụy Vương". Ngày 15 tháng 3 năm 220, Tào Tháo qua đời, con trưởng là Tào Phi kế ngôi "Ngụy Vương". Cũng trong năm này, ngày 11 tháng 12, Tào Phi cướp ngôi của Hán Hiến Đế và tự xưng là Hoàng đế, lập nên nước Ngụy. Gần như ngay sau đó, Lưu Bị lên ngôi Hoàng đế lập ra nước Thục Hán để tiếp tục dòng dõi của nhà Hán, và Tôn Quyền cho sứ giả sang xưng thần với Tào Phi để được phong làm Ngô Vương, sau đó lên ngôi Hoàng đế của Đông Ngô vào năm 229. Tào Ngụy ít chiến tranh với Đông Ngô như với Thục Hán. Từ khi 3 quốc gia chính thức xưng hiệu, trong vòng hơn 40 năm, Tào Ngụy và Thục Hán đánh nhau 15 lần, 6 lần thời Gia Cát Lượng làm thừa tướng ở Thục (Lục xuất Kỳ Sơn) và 9 lần khi Khương Duy cầm quyền chỉ huy quân sự tại nước này (Cửu phạt trung nguyên). Thực quyền trong triều đình Tào Ngụy đã rơi vào tay họ Tư Mã sau khi Ngụy Minh Đế Tào Duệ mất (239). Tư Mã Ý diệt quan phụ chính trong tông thất nhà Ngụy là Tào Sảng và nắm trọn quyền hành. Sau khi Ý chết, con là Tư Mã Sư lên thay, phế Tào Phương, lập Tào Mao làm vua (254). Năm 260, em Tư Mã Sư là Tư Mã Chiêu giết Mao lập Tào Hoán. Trương Đễ, thừa tướng Đông Ngô thời Tam quốc, đánh giá nhà Tào Ngụy bên ngoài không được lòng dân, bên trong thì họ Tư Mã đã khống chế triều đình nên bị diệt vong là lẽ đương nhiên[1]: Tào Tháo dẫu công trùm Trung Hạ, uy chấn tứ hải, (nhưng) ưa chuộng quyền thuật, chinh phạt không thôi, dân sợ oai mà không nhớ đức vậy. Phi, Duệ nối ngôi, còn tàn ngược hơn, trong xây cung thất, ngoài sợ hùng hào, đông tây rong ruổi, không năm nào yên; họ gây mất lòng dân, đã lâu ngày rồi. Cha con Tư Mã Ý từ khi nắm quyền, nhiều lần lập công, dẹp bỏ hà khắc mà ban bố ân huệ, vì họ mưu đồ làm chúa mà cứu chữa căn bệnh ấy, lòng dân theo về, cũng đã lâu rồi. Bởi thế Hoài Nam ba lần loạn, mà phúc tâm không rối; cái chết của Tào Mao, tứ phương chẳng động... Cái gốc rễ của họ vững chắc rồi, gian kế đã lập rồi. Tháng chạp năm Ất Dậu (tháng 2 năm 266), con Tư Mã Chiêu là Tư Mã Viêm cướp ngôi Hoàng đế của Tào Hoán, lập nên nhà Tấn. Tào Ngụy mất từ đó.
Thục Hán (221 – 263)
Khi triều đại nhà Hán suy yếu, Lưu Bị – một người thuộc dòng dõi hoàng tộc nhà Hán – đã tập hợp được nhiều tướng tài, cùng với sự giúp đỡ của Gia Cát Lượng, đã chiếm được Kinh Châu rồi sau đó là vùng Ba Thục và Hán Trung. Với những vùng đất này, Lưu Bị đã có vị thế khá vững chắc ở Trung Quốc lúc bấy giờ. Vào năm 219, Lã Mông, một tướng kiệt xuất của Đông Ngô, đã tấn công và chiếm được Kinh Châu cho Tôn Quyền. Không những vậy, Quan Vũ, em kết nghĩa và cũng là dũng tướng của Lưu Bị, bị bắt và chém đầu. Sau khi Tào Phi truất ngôi Hán Hiến Đế năm 220, Lưu Bị đã xưng đế, đặt quốc hiệu là Hán, các sách sử thời sau gọi là Thục Hán. Năm 222, Lưu Bị soái lĩnh hơn 4 vạn quân cùng với sự trợ giúp của người man Ngũ Khê Sa Ma Kha tấn công Đông Ngô để lấy lại Kinh Châu và trả thù cho Quan Vũ. Tuy nhiên, do sai lầm chiến thuật nghiêm trọng, doanh trại của quân Hán bị Lục Tốn đốt cháy và gần như toàn bộ số quân bị tiêu diệt tại Di Lăng. Lưu Bị thất trận, phải chạy về thành Bạch Đế và một năm sau ông mất ở đó. Kế tục ông là Lưu Thiện. Thừa tướng Gia Cát Lượng và đại tướng Lý Nghiêm được giao trọng trách phụ chính đại thần. Thừa tướng Gia Cát Lượng, thay vì tấn công trả thù đã giảng hòa với Đông Ngô. Ông quyết định rằng Tào Ngụy mới là đối thủ chính, nên đã thực hiện nhiều đợt tấn công lên phía bắc nhưng đều không thành công. Cuối cùng, vào năm 234, Gia Cát Lượng qua đời trong đợt tấn công lần thứ 6 vào nước Ngụy. Người kế tục ông, Khương Duy cũng đã thực hiện 9 chiến dịch lên phía bắc, nhưng lần nào cũng không thành công. Những đợt tấn công liên tiếp của Gia Cát Lượng góp phần củng cố sự đoàn kết trong nội bộ triều đình, đồng thời cũng gây ra nhiều thiệt hại cho chính quyền Ngụy. Tuy nhiên, đến giai đoạn Khương Duy nắm quyền, sự chênh lệch đã lộ rõ, nhiều cuộc tấn công không những bị chặn đứng mà bản thân quân đội Thục Hán còn chịu thiệt hại nặng nề (điều mà các lần tiến công của Gia Cát Lượng không hề gặp phải). Hơn nữa, Lưu Thiện, người nắm quyền sau khi đại tướng quân Phí Y bị thích khách nước Ngụy ám sát, không quan tâm cải thiện đất nước, mà chỉ nghe lời phiểm nịnh của hoạn quan Hoàng Hạo, ăn chơi sa đọa, khiến chính quyền nước Thục ngày càng suy yếu. Dù vậy, dân số Thục Hán sau hơn 40 năm vẫn có sự tăng trưởng so với cuối thời Đông Hán, từ khoảng 9 triệu người vào năm 221 lên 10 triệu người năm 263.[8] Vào năm 263, Tư Mã Chiêu đã cho 3 đạo quân tấn công vào nước Thục. Cánh quân của tướng Chung Hội nhanh chóng chiếm được Hán Trung, nhưng sau đó bị quân đội dưới quyền các tướng Khương Duy, Trương Dực, Liêu Hóa, Đổng Quyết chặn đứng tại Kiếm Các. Tướng Đặng Ngải áp dụng chiến thuật bất ngờ, cho quân đội vòng qua đường núi Âm Bình. Quân đội nước Ngụy dưới quyền Đặng Ngải nhanh chóng đánh bất ngờ Miên Trúc và thẳng tiến đến Thành Đô. Hậu chủ Lưu Thiện lập tức đầu hàng. Nước Thục mất từ đó. Sau đó, Khương Duy vẫn hi vọng khôi phục Thục Hán, bằng cách xúi giục Chung Hội nổi dậy chống lại Đặng Ngải và nước Ngụy. Tuy nhiên kế hoạch thất bại và cả ba tướng đều bị giết. Lưu Thiện được đưa đến thủ đô của nước Ngụy là Lạc Dương và được phong làm An Lạc công, sống cuộc đời còn lại một cách thanh bình.
Đông Ngô (229 – 280)
Chiến tranh Đông Ngô - Việt (248)
Năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô (Trung Quốc) tàn ác, dân gian khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh chiếm quận lỵ Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân, đứng đầu là Tiết Kính Hàn. Thừa thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng đồng bằng con sông này.
Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Song do chênh lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh khác nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn hai tháng. Bà Triệu chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng. Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ.
Nhà Tấn (266 – 420)
Nhà Tấn (266–420 theo dương lịch), là một trong Lục triều trong lịch sử, sau thời Tam Quốc và trước thời Nam Bắc triều ở Trung Quốc. Triều đại này do Tư Mã Viêm thành lập, sau thời kỳ Tam Quốc (220-280), với việc Tấn đánh chiếm Đông Ngô năm 280. Có hai giai đoạn lịch sử của nhà Tấn. Nhà Tây Tấn (265–316) là sự kế tục của Tào Ngụy sau khi Tư Mã Viêm chiếm quyền lực, và có thủ đô tại Lạc Dương hoặc Trường An. Tây Tấn thống nhất Trung Quốc năm 280, nhưng sau đó bị rơi vào một cuộc nội chiến và cuộc xâm lược của Ngũ Hồ. Miền Bắc bị xâm chiếm, cát cứ và bị chia tách thành Ngũ Hồ thập lục quốc. Các quốc gia nhỏ này đánh lẫn nhau và với nhà Tây Tấn, chuyển sang giai đoạn thứ hai của lịch sử triều đại, nhà Đông Tấn khi Tư Mã Duệ chuyển kinh đô về Kiến Khang (Nam Kinh ngày nay). Cuối cùng Đông Tấn bị nhà Lưu Tống tiêu diệt năm 420.
Tây Tấn (266 – 316)
Năm 263, Ngụy đánh và chiếm Thục, chỉ còn lại Ngô làm đối thủ. Sau đó vua Ngụy bị quyền thần họ Tư Mã thao túng và chính thức đoạt ngôi năm 265. Tư Mã Viêm nối chức cha ông phế vua Ngụy lập ra nhà Tấn, tức là Tấn Vũ Đế (265-290). Năm 280, Tấn Vũ đế chinh phục nốt nước Ngô. Trung Quốc lại được thống nhất, và Tấn Vũ đế mở rộng quyền lực của mình về phía bắc đến trung tâm Triều Tiên và phía nam đến hết An Nam (Việt Nam). Một triều đại mới, gọi là Tây Tấn đã bắt đầu ở Trung Quốc.
Đông Tấn (317 – 420)
Sau loạn bát vương, Tây Tấn suy yếu cực độ và bị các tộc phương bắc xâm chiếm. Năm 316, vua nước Hán Triệu là Lưu Thông tiêu diệt Tây Tấn. Các quý tộc nhà Tấn chạy xuống phía nam tái lập nhà Đông Tấn (ở đất nhà Ngô thời Tam Quốc cũ). Vùng đất phía bắc do các tộc người Hồ chiếm giữ, gọi là thời Ngũ Hồ loạn Hoa, gồm 16 nước.
Thập lục quốc (304 - 439)
Một loạt quốc gia nay được dựng lên rồi mai đổ, thay hiệu, đổi ngôi chia cắt triền miên. Chẳng những chiến tranh tàn khốc mà nền cai trị của các vua Ngũ Hồ cũng tàn khốc, một phần do tính sắc tộc. Không giống với các vua người Hán, các vua Ngũ Hồ phần lớn xuất thân có trình độ văn hóa thấp, có tinh thần thượng võ, hiếu chiến và ưa dùng vũ lực. Các nhà sử học đã xác nhận thời kỳ này xuất hiện những bạo chúa như Thạch Hổ, Nhiễm Mẫn, Phù Sinh, Hách Liên Bột Bột... Nhiều vua Ngũ Hồ đồng thời là những viên tướng thiện chiến, thường trực tiếp làm tướng cầm quân ra mặt trận và lập công hiển hách như Thạch Lặc, Thạch Hổ, Phù Kiên, Mộ Dung Thuỳ, Diêu Trường, Hách Liên Bột Bột... Đồng thời không ít vị bị bắt hoặc bỏ mình ngoài chiến trường như Lưu Diệu nước Tiền Triệu; Nhiễm Mẫn nước Nhiễm Nguỵ; Phù Kiên, Phù Đăng, Phù Xung nước Tiền Tần... Đó là một điểm khác của các vua Ngũ Hồ với các vua Đông Tấn - thường kết thúc số mệnh trong cung đình, dù là trong thời hòa bình hay loạn lạc. https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_H%E1%BB%93_th%E1%BA%ADp_l%E1%BB%A5c_qu%E1%BB%91c
Nam - Bắc triều (420 – 589)
Sau Đông Tấn là thời kì Nam- Bắc triều. Đây là thời kì một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589 khi Tùy diệt Trần. Nam Bắc triều ( 420-589)[1][2] là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589 khi Tùy diệt Trần. Về trình tự, thời kỳ Nam Bắc triều nối tiếp thời kỳ Đông Tấn-Ngũ Hồ thập lục quốc, sau đó là triều Tùy. Do hai thế lực bắc-nam đối lập trong một thời gian dài, do vậy gọi là Nam Bắc triều. Nam triều (420-589) bao gồm bốn triều đại:[chú 1] Lưu Tống, Nam Tề, Lương, Trần; Bắc triều (439-589[chú 2]) bao gồm năm triều đại: Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu. Hoàng tộc Nam triều chủ yếu xuất thân từ hàn môn hoặc thứ tộc, họ dần dần nắm giữ được quân quyền nên có thể soán ngôi đoạt hoàng vị.[3] Vào sơ kỳ, kinh tế Nam triều dần được khôi phục, quân lực cường thịnh. Tuy nhiên, do sai lầm về chiến thuật và quân lực của Bắc triều cũng cường thịnh, khiến biên giới liên tục dời về phía nam. Hoàng đế cùng tông thất Nam triều thường đấu tranh đẫm máu để tranh hoàng vị. Đến thời Lương, Lương Vũ Đế hồi tâm hướng thiện, khiến quốc lực lại một lần nữa cường thịnh. Tuy nhiên, đến những năm cuối thời Lương Vũ Đế, quốc gia hủ bại suy sụp, loạn Hầu Cảnh khiến cho thực lực của Nam triều suy kém đi nhiều, đồng thời bị chia rẽ, chính cục "Kiều tính thế tộc" chi phối hoàn toàn tan vỡ. Mặc dù Trần Văn Đế thống nhất Nam triều, song quốc lực đã sút kém, chỉ có thể dựa vào thiên hiểm Trường Giang để chống cự Bắc triều. Bắc triều kế thừa Ngũ Hồ thập lục quốc, là triều đại tân hưng Hồ-Hán dung hợp. Hoàng thất Bắc Ngụy thuộc tộc Tiên Ti, quan viên tộc Hán chịu ảnh hưởng của văn hóa Ngũ Hồ, nhiều người thông hôn với người Hồ, trong khi hoàng thất Tiên Ti cũng chịu sự hun đúc của văn hóa Hán. Triều Bắc Ngụy bị Nhu Nhiên ở phương bắc trói buộc, cho đến sau khi Đột Quyết vốn khá hữu hảo thôn tính Nhu Nhiên thì mới có thể dốc toàn lực để đối phó với Nam triều. Hậu kỳ Bắc Ngụy, sau loạn Lục trấn và nông dân bạo động, thực lực suy yếu đi nhiều. Sau khi Bắc Ngụy phân liệt thành Đông Ngụy và Tây Ngụy, không lâu sau lại phân liệt, bị Bắc Tề và Bắc Chu thay thế. Bắc Tề chủ yếu do tập đoàn Lục trấn hợp thành,[4] sơ kỳ quân lực cường thịnh. Bắc Chu có ít quân Tiên Ti hơn Bắc Tề, địa vị chính trị không được như Nam triều Trần. Cuối cùng, tập đoàn Quan-Lũng do Vũ Văn Thái khai sáng thôn tính chính quyền Bắc Tề đang ngày càng hủ bại. Sau khi Bắc Chu Vũ Đế qua đời, một người Hán là Dương Kiên nắm giữ chính quyền, thông qua thụ thiện từ Bắc Chu Tĩnh Đế mà kiến lập triều Tùy, sau 8 năm mưu tính thì phát binh diệt Trần, thống nhất Trung Quốc. Về tương đối, Bắc triều chiến tranh không dứt, các giai cấp đối lập; còn Nam triều khá ổn định, kinh tế tiếp tục phát triển ổn định, xuất hiện trị thế "Nguyên Gia chi trị" và "Vĩnh Minh chi trị". Nhân khẩu Trung Nguyên từ thời loạn Hoàng Cân và loạn Vĩnh Gia đã liên tục dời về phương nam, mang theo sức lao động và kỹ thuật sản xuất. Giang Nam phồn vinh, khiến cho kinh tế Trung Quốc chuyển dịch về phương nam, đến thời Tùy Dạng Đế thì triều đình cho kiến lập Đại Vận Hà.[5] Về phương diện văn hóa, loạn thế tạo cho tư tưởng tự do có được một mảnh đất màu mỡ để phát triển, đề xuất quan điểm "vụ thực cầu trị" và "vô quân luận". Đối với văn học, nghệ thuật, khoa kỹ, có sự khai sáng ra các diễn giải và lý luận độc đáo. Về huyền học, Phật giáo và Đạo giáo đều rất hưng thịnh. Trong đó, phát triển các hang động Phật giáo như hang Mạc Cao, hang đá Mạch Tích Sơn, hang đá Vân Cương, hang đá Long Môn. Về giao lưu đối ngoại cũng rất hưng vượng, đông đến Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên, tây đến vùng Tây Vực, Trung Á, Tây Á (đế quốc Sassanid), nam đến khu vực Đông Nam Á và Ấn Độ. Sơ kỳ Nam Bắc triều vẫn tuân theo chính trị thế tộc, giai tầng xã hội phân thành "thế tộc", "tề dân biên hộ", "y phụ nhân" cùng nô lệ.[6] Thế tộc nắm giữ một lượng lớn y phụ nhân không cần phải nộp thuế, những người này tiến hành sản xuất và tác chiến cho thế tộc, do đó ảnh hưởng đế số thuế thu được của triều đình. Tuy hoàng đế Nam triều vẫn cần đến sự ủng hộ của thế tộc chủ lưu, song cũng trợ giúp cho hàn môn để cân bằng thế lực chính trị, vào thời Lương còn manh nha xuất hiện chế độ khoa cử.[7] Thế tộc Nam triều do được hưởng an nhàn trong một thời gian dài nên dần dần suy thoái, sau loạn Hầu Cảnh thì tan vỡ triệt để. Ở phương bắc, người Tiên Ti thiếu kinh nghiệm chính trị, do vậy cũng trọng dụng thế tộc người Hán, dẫn đến chọn lọc vay mượn giữa văn hóa hai bên, lâu dần hình thành kết hợp văn hóa, tối thịnh là phong trào Hán hóa dưới thời Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế. Quá trình kết hợp sản sinh xung đột tư tưởng, đấu tranh chính trị, xung đột chủng tộc kịch liệt, như loạn Lục trấn hay phong trào bài Hán của Bắc Tề.[8][9] Bắc Chu thực hiện chính sách "Quan Trung bản vị", dung hợp văn hóa Tiên Ti và Hán nhằm loại bỏ rào cản Hồ-Hán. [10]
Nhà Tùy (581 – 619)
Năm Đại Nghiệp thứ 13 (617), vua Tùy là Tùy Dạng đế bị thống lĩnh Cấm vệ quân là Vũ Văn Hóa Cập sát hại. Vương triều Tùy dựng được 38 năm bị diệt vong.
Chiến tranh Lương, Tùy - Vạn Xuân (541-602)
Năm 541, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa, đã đánh đuổi được thứ sử Tiêu Tư nhà Lương, sau 3 lần đánh bại quân Lương những năm kế tiếp, Lý Bí tự xưng đế tức là Lý Nam Đế, lập ra nước Vạn Xuân vào năm 544. Đến năm Năm 545, nhà Lương cử Trần Bá Tiên và Dương Phiêu sang đánh nước Vạn Xuân, Lý Nam Đế bị thua trận, giao lại binh quyền cho Triệu Quang Phục. Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục đánh đuổi được quân Lương vào năm 550, bảo vệ được nước Vạn Xuân. Ông tự xưng là Triệu Việt Vương, đến năm 571 một người cháu của Lý Nam Đế là Lý Phật Tử đã cướp ngôi Triệu Việt Vương, tiếp tục giữ được sự độc lập cho người Việt thêm 30 năm đến khi nhà Tùy sang đánh năm 602.
Năm 602, nhà Tùy sai Lưu Phương đem quân 27 dinh sang đánh nước Vạn Xuân. Vua đời thứ ba của Vạn Xuân là Lý Phật Tử sợ giặc và đầu hàng, bị bắt sang Trung Hoa. Việt Nam vào thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 3 mà trước hết là thuộc Tùy. Thời đó, Việt Nam bị xếp làm một châu của Tùy, gọi là Giao châu (交州). Trên đường đánh Lâm Ấp quay về, Lưu Phương mắc bệnh chết. Sau Lưu Phương, đến Khâu Hòa được cử làm đại tổng quản.
Nhà Đường (618 – 907)
Năm 618, cuộc nội chiến kết thúc, Đường quốc công Lý Uyên là người thắng trận. Ông tái thống nhất Trung Quốc, mở đầu thời đại nhà Đườngvà được tôn xưng là Đường Cao Tổ. Tuy nhiên, các con ông lại đánh nhau để giành quyền thừa kế ngai vàng. Hai người con trai của ông là Lý Kiến Thành và Lý Nguyên Cát đã thiệt mạng trong cuộc tranh giành quyền lực này. Lý Uyên chỉ còn một sự lựa chon duy nhất là Lý Thế Dân, con trai dòng đích duy nhất còn sống sót. Năm 626, Lý Uyên nhường ngôi cho Lý Thế Dân, người mà về sau đã đưa đất nước Trung Quốc quay trở lại thời thịnh vượng và vàng son. Năm 907, một lãnh chúa là Chu Ôn lật đổ ngai vàng nhà Đường và lập lên triều Lương, một trong năm triều đại ngắn ngủi kế tiếp nhau thống trị bắc Trung Quốc trong nửa thế kỷ
Năm 618, nhà Đường lật đổ nhà Tùy, lập ra nước Đại Đường. Khâu Hòa xin thần phục nhà Đường năm 622. Việt Nam thành thuộc địa của Đại Đường.
Chiến tranh Đường - Việt
Khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Thúc Loan lãnh đạo nổ ra vào năm Khai Nguyên thứ nhất đời vua Đường Huyền Tông ở Trung Hoa, tức năm Quý Sửu (713). Mai Thúc Loan đã giải phóng toàn bộ đất nước và giữ vững nền độc lập trong 10 năm (713-722). Khoảng niên hiệu Đại Lịch (766-779), chưa rõ đích xác vào năm nào, nhân lòng căm phẫn của người dân, lợi dụng khi quân lính ở Tống Bình (Hà Nội) nổi loạn, Phùng Hưng đã phát động một cuộc khởi nghĩa lớn chống chính quyền đô hộ. Cuối thế kỷ 9, chính quyền trung ương nhà Đường suy yếu nghiêm trọng. Nạn cát cứ của quân phiệt địa phương ngày càng ác liệt. Khởi nghĩa Hoàng Sào (874-884) đã làm triều đình nhà Đường rung chuyển. Khúc Thừa Dụ, khi đó là Hào trưởng Chu Diên, được dân chúng ủng hộ, đã tiến quân ra chiếm đóng phủ thành Đại La (Tống Bình cũ - Hà Nội), tự xưng là Tiết độ sứ.
Ngũ Đại Thập Quốc Tống Nguyên (1271 – 1368)
Năm 907, một lãnh chúa là Chu Ôn lật đổ ngai vàng nhà Đường và lập lên triều Lương, một trong năm triều đại ngắn ngủi kế tiếp nhau thống trị bắc Trung Quốc trong nửa thế kỷ: Hậu Đường (923-936), Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (947-950), Hậu Chu (951-959). Ở phía nam, các lãnh chúa cát cứ vùng đất của mình và lần lượt thành lập mười tiểu quốc nhỏ và không ngừng tìm kiếm phương cách để thôn tính lẫn nhau: Tiền Thục, Hậu Thục, Ngô, Ngô Việt, Nam Đường, Mân, Sở, Nam Hán, Nam Bình. Tới năm 951, một hoàng thân nhà Hậu Hán chiếm giữ vùng Thái Nguyên lập ra nước Bắc Hán. Thời kỳ này, người Trung Quốc gọi là Ngũ Đại Thập Quốc. Năm 907, tại Biện Châu, Chu Ôn soán Đường, kiến lập Hậu Lương, khởi đầu cho Ngũ đại. Con của Lý Khắc Dụng là Lý Tồn Úc diệt Hậu Lương, lập nên Hậu Đường. Sau thời Hậu Đường, quân vương Ngũ đại đều xuất thân là tử tôn hoặc bộ thuộc của Lý Khắc Dụng. Trải qua khuếch trương và chỉnh đốn dưới thời Hậu Đường Minh Tông, quốc lực Hậu Đường cường thịnh, nhưng sau lại phát sinh nội loạn, Thạch Kính Đường dẫn quân Khiết Đan diệt Hậu Đường, kiến lập Hậu Tấn. Không lâu sau, quan hệ giữa Khiết Đan và Hậu Tấn trở nên xấu đi, quân Khiết Đan tiến về phía nam tiêu diệt Hậu Tấn, kiến lập triều Liêu. Đồng thời, Lưu Tri Viễn tại Thái Nguyên kiến lập Hậu Hán, sau đó thu phục Trung Nguyên. Tiếp đến, Quách Uy soán Hậu Hán, kiến lập Hậu Chu, Hậu Chu Thế Tông Sài Vinh khổ tâm mưu hoạch phát triển, khiến Hậu Chu có tia hy vọng thống nhất Thiên hạ, song ông đột ngột qua đời khi Bắc phạt nhằm lấy lại Yên Vân thập lục châu từ tay người Khiết Đan. Sau đó, Hậu Chu bị Triệu Khuông Dẫn soán, Ngũ đại kết thúc. Về phần Thập quốc, gồm có: Ngô, Ngô Việt, Mân, Kinh Nam, Sở, Nam Đường, Nam Hán, Bắc Hán, Tiền Thục, và Hậu Thục. Ngô ở Giang Nam là mạnh nhất, nhưng sau bị Lý Biện soán vị, lập ra Nam Đường, tiếp đến có Ngô Việt và Mân. Vùng Hồ-Quảng lại có các nước Kinh Nam, Sở và Nam Hán. Nam Đường có quốc lực mạnh nhất, trước sau công diệt Mân, Sở, song cũng vì nhiều lần dụng binh mà quốc lực suy thoái, cuối cùng bại trước Hậu Chu. Đất Thục có Tiền Thục và Hậu Thục, quốc gia phú cường, chỉ kém có Nam Đường, song vì trì trệ trong an lạc, cuối cùng bị thế lực Trung Nguyên tiêu diệt. Bắc Hán là nước duy nhất ở phía bắc trong Thập quốc, do hậu duệ hoàng tộc Hậu Hán kiến lập. Triệu Khuông Dẫn kiến lập triều Tống (sử gọi là Bắc Tống), cùng với hoàng đệ là Tống Thái Tông lần lượt tiêu diệt quần hùng, đến năm 979 thì thống nhất Trung Quốc bản thổ, Thập quốc kết thúc.[tham 1]
Chiến tranh Nam Hán - Việt (938)
Trận Bạch Đằng năm 938 là một trận đánh giữa quân dân Việt Nam - thời đó gọi là Tĩnh Hải quân và chưa có quốc hiệu chính thức - do Ngô Quyền lãnh đạo với quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Kết quả, quân dân Việt Nam giành thắng lợi. Đây là một trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó đánh dấu cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc, nước Việt tiến vào thời kỳ xây dựng nhà nước phong kiến độc lập lâu dài.
Chiến tranh Tống - Đại Cồ Việt (981)
Chiến tranh Tống-Việt năm 981 là một cuộc chiến tranh giữa Đại Tống thời Tống Thái Tông và Đại Cồ Việt thời Lê Đại Hành diễn ra từ tháng 1 đến tháng 4 năm 981 trên lãnh thổ Đại Cồ Việt. Kết quả, quân dân Đại Cồ Việt đã đánh bại quân đội Đại Tống. Sau cuộc chiến này, năm 986, hoàng đế Đại Tống chấp nhận nhà Tiền Lê và ban chế phong cho Lê Đại Hành.
Chiến tranh Tống - Đại Việt (1075-1077)
Chiến tranh Tống - Việt, 1075-1077 là tên gọi cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc vào cuối thế kỷ XI. Giai đoạn đầu, tướng nhà Lý là Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh đòn phủ đầu sang đất Tống trong chiến dịch 1075-1076 nhằm làm suy yếu binh lực của nhà Tống. Giai đoạn sau, quân Lý rút về lập tuyến phòng thủ trên bờ nam sông Như Nguyệt chống lại cuộc nam tiến của đại quân Tống trong năm 1076-1077. Trận Như Nguyệt kết thúc với chiến thắng của quân đội Đại Việt sau khi đã gây tổn thất lớn cho đại quân nhà Tống,buộc quân Tống phải tháo lui và Đại Việt bảo vệ được nền độc lập tự chủ của mình.
Chiến tranh Nguyên Mông - Đại Việt
Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt hay Kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông (tên gọi ở Việt Nam) của một cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc của quân và dân Đại Việt đầu thời Trần dưới thời các vua Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông trước sự tấn công của đế quốc Mông Cổ. Tuy thời gian của cuộc kháng chiến bắt đầu từ năm 1258 đến năm 1288, nhưng thời gian chiến sự chính thức chỉ tổng cộng bao gồm khoảng gần 9 tháng, chia làm 3 đợt. Trước, giữa và sau các đợt chiến sự là thời gian tiến hành tích cực các hoạt động ngoại giao. Kết quả, Đại Việt bảo vệ được nền độc lập của mình, nhưng để tránh chiến tranh tái diễn, trên danh nghĩa phải chịu làm một xứ phụ thuộc vào đế quốc Mông Cổ. Thắng lợi quân sự của phía Đại Việt gắn liền với tên tuổi của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Lịch sử Việt Nam xem cuộc kháng chiến này là một trong những trang sử hào hùng nhất của mình.
Nhà Minh (1368 – 1644)
Năm 960, trong khi Trung Quốc ở vào tình trạng rối ren, vị tướng phụ trách an ninh nơi cung cấm ở thủ đô mới Khai Phong là Triệu Khuông Dậnnhân khi vua nhà Hậu Chu mới lên ngôi còn bé, bèn làm binh biến lên làm vua. Ông lập ra Nhà Tống. Nhà Tống cuối cùng bị rơi vào quân xâm lược Mông Cổ năm 1279. Hốt Tất Liệt người Mông Cổ đã lập ra nhà Nguyên. Về sau một thủ lĩnh nông dân là Chu Nguyên Chương đã lật đổ người Mông Cổ năm 1368 và lập ra nhà Minh, kéo dài tới năm 1644.
Chiến tranh Minh-Đại Ngu (1406-1407)
Chiến tranh Minh - Đại Ngu, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là chiến tranh xâm lược của nhà Minh 1406-1407, là cuộc chiến của nhà Hồ nước Đại Ngu chống cuộc xâm chiếm của nhà Minh dưới triều Minh Thành Tổ nhưng bị thất bại, Việt Nam một lần nữa rơi vào sự cai trị của Trung Quốc hay còn gọi là Bắc thuộc lần 4.
Chiến tranh Minh - Đại Việt
Sau thất bại của người Việt trước Trung Quốc trong thời nhà Hồ, Nhiều cuộc nổi dậy chống Minh, điển hình là nhà Hậu Trần, đã bị dẹp một cách tàn khốc. Liên tiếp 2 vua nhà Hồ, một vua nhà Hậu Trần bị bắt về Trung Quốc, vua Trùng Quang và các tướng đều tử tiết. Trương Phụ tàn sát những người lính theo quân khởi nghĩa và cả dân thường rất tàn bạo (chặt đầu, đốt xác, cuốn ruột vào cây...) để khủng bố tinh thần người Việt. Mặt khác, các tướng nhà Minh như Hoàng Phúc, Trương Phụ đã thiết lập bộ máy cai trị và huy động được một lực lượng người Việt giúp việc khá đắc lực như Mạc Thúy, Lương Nhữ Hốt, Trần Phong... Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) do Lê Lợi lãnh đạo nổ ra trong bối cảnh rất khó khăn, sau cùng kết thúc thắng lợi. Người Việt giành lại độc lập, nước Đại Việt phục hưng với sự ra đời của nhà Hậu Lê.
Nhà Thanh (1636 – 1912)
Chiến tranh Thanh - Đại Việt
Trận Ngọc Hồi - Đống Đa (hay Chiến thắng Kỷ Dậu) là tên gọi do các nhà sử học Việt Nam dành cho loạt trận đánh chống ngoại xâm thắng lợi của nước Đại Việt thời Tây Sơn do vua Quang Trung lãnh đạo vào đầu năm Kỷ Dậu 1789, đánh tan hàng vạn quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy - kéo sang do sự cầu viện của vua Chiêu Thống nhà Hậu Lê. Trận Ngọc Hồi - Đống Đa khẳng định sự tồn tại của nước Đại Việt trước hoạ xâm lược, chấm dứt sự tồn tại của nhà Hậu Lê. Chiến thắng này còn đánh dấu việc nhà Tây Sơn chính thức thay nhà Hậu Lê trong việc cai quản đất Bắc Hà và trong quan hệ với nhà Thanh.
Thời hiện đại (1912 đến nay)
Trung Hoa Dân Quốc (1912 – 1949)
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (1949 – nay)
Hải chiến Hoàng Sa 1974
Hải chiến Hoàng Sa là một trận hải chiến giữa Hải quân Việt Nam Cộng hòa và Hải quân Trung Quốc xảy ra vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 trên quần đảo Hoàng Sa. Cả hai phía đều tuyên bố có chủ quyền ở quần đảo này, trong khi Liên Hợp Quốc không xác nhận chủ quyền của bất kỳ nước nào ở Hoàng Sa, dẫn tới các tranh chấp về chủ quyền, cuối cùng tạo ra xung đột. Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Genève 1954, toàn bộ phần lãnh hải phía nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam do quân đội Pháp kiểm soát sẽ được chuyển giao cho Quân đội Quốc gia Việt Nam, bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa. Sau khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa được thành lập dựa trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam thì quần đảo này thuộc quyền quản lý hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Trong thời gian chuyển giao giữa Pháp và Quốc gia Việt Nam vào năm 1956, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã chiếm nửa phía đông quần đảo Hoàng Sa và Trung Hoa Dân quốc đã chiếm đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa). Sau các căng thẳng ngoại giao, đến năm 1974 thì cuộc hải chiến xảy ra. Dù có tàu chiến mạnh hơn nhiều lần cả về kích thước lẫn hỏa lực[3] nhưng Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã nhanh chóng thất bại, và Trung Quốc coi đây là một chiến thắng đầy kỳ tích của hải quân nước này[4] Sau trận đánh, không quân Việt Nam Cộng hòa có kế hoạch huy động lực lượng áp đảo Trung Quốc để tái chiếm quần đảo, nhưng Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu đã ra lệnh hủy bỏ chiến dịch do chịu sức ép từ Hoa Kỳ. Để đổi lấy quan hệ đồng minh với Trung Quốc, Hoa Kỳ đã cảnh báo Việt Nam Cộng hòa không được đánh trả
Chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc (1979)
Chiến tranh biên giới 1979, hay thường được gọi là Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm 1979, là một cuộc chiến ngắn nhưng khốc liệt giữa Trung Quốc và Việt Nam, diễn ra vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 khi Trung Quốc đưa quân tấn công Việt Nam trên toàn tuyến biên giới giữa 2 nước. Chiến tranh biên giới Việt – Trung bắt nguồn từ quan hệ căng thẳng kéo dài giữa hai quốc gia, diễn ra trong khoảng một tháng với thiệt hại về người và tài sản cho cả hai phía. Cuộc chiến kết thúc khi Trung Quốc tuyên bố hoàn thành việc rút quân vào ngày 16 tháng 3 năm 1979 sau khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng bên phía Việt Nam kí lệnh Tổng động viên toàn dân và Trung Quốc đã đánh chiếm các thị xã Lạng Sơn, Lào Cai, Cao Bằng và một số thị trấn vùng biên. Sau đó cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố đã chiến thắng. Mặc dù chịu thiệt hại lớn và thất bại trong việc buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia nhưng Trung Quốc đã chứng minh được rằng đối thủ Liên Xô sẽ không trực tiếp tham chiến để bảo vệ đồng minh Việt Nam của mình. Cuộc chiến cũng để lại hậu quả lâu dài đối với nền kinh tế Việt Nam và căng thẳng trong quan hệ giữa hai nước. Xung đột vũ trang tại biên giới giữa hai nước vẫn còn tiếp diễn thêm hơn mười năm nữa. Tới năm 1991, sau khi Liên Xô tan rã, Quan hệ ngoại giao Việt – Trung mới chính thức được bình thường hóa.