PL có tính quyền lực NN (trang 212): đây là đặc điểm riêng có của PL, các quy định PL có thể do NN đặt ra hoặc NN thừa nhận các quy tắc ứng xử có sẵn trong XH (đạo đức, tập quán...). PL thể hiện ý chí của NN. PL chính là những yêu cầu, đòi hỏi, cho phép của NN đối với hành vi ứng xử của các chủ thế trong XH. Với quyền lực của mình, NN sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức thực hiện PL, có thể sử dụng biện pháp cưỡng chế để bảo vệ PL, đảm bảo PL đc thực hiện nghiêm chỉnh trong c/s.
PL có tính quy phạm phổ biến: Quy phạm là khuôn mẫu, chuẩn mực. Các quy định của PL là những khuôn mẫu, chuẩn mực định hướng cho nhân thức và hành vi của mọi người, hướng dẫn cách xử sự cho cá nhân, tổ chức trong XH. (được làm gì, ko đc làm gì). Phạm vi tác động của PL rất rộng lớn, điều chỉnh các QHXH trên các lĩnh vực của cuộc sống.
PL có tính hệ thống: PL là hệ thống các quy phạm hay các quy tắc xử sự chung, mặc dù điều chỉnh các QHXH trong nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng các quy định của PL ko tồn tại biệt lập mà giữa chúng có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, tạo nên 1 chính thể thống nhất
PL có tính xác định về hình thức: PL được thể hiện trong những hình thức xác định như tập quán pháp, tiền lệ pháp, văn bản QPPL. Ở dạng thành văn, các quy định của PL được thể hiện rõ ràng, cụ thể, bảo đảm có thể được hiểu và thực hiện thống nhất trên toàn XH