MindMap Gallery Lịch Sử Việt Nam
Sơ đồ tư duy này được tạo bằng EdrawMind, trình bày một cách hệ thống các sự kiện và giai đoạn quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Nó bao gồm các chủ đề chính như: bài học qua 4000 năm lịch sử, chế độ phong kiến giữa 1975–1879, lịch sử Việt Nam trong không chống Mỹ, lịch sử Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc, sự khắc thanh Nước Văn Lang và Nước Âu Lạc, giai đoạn Bắc thuộc, và thất kỳ Bắc thuộc. Mỗi phần được phân tích chi tiết với các sự kiện, nhân vật, và ảnh hưởng lịch sử.
Edited at 2022-06-03 03:07:59Este mapa mental, creado con EdrawMind, se centra en el análisis de la obra "Nhà Giá Kim". Se divide en tres secciones principales: "Bài học rút ra sau khi đọc sách" (Lecciones aprendidas después de leer el libro), "Cảm nhận" (Impresiones) y "Tóm tắt câu chuyện" (Resumen de la historia). Bài học rút ra sau khi đọc sách incluye puntos como la importancia de escuchar a los demás, no rendirse ante dificultades, y la búsqueda de la felicidad. Cảm nhận aborda las emociones y reflexiones personales tras leer el libro. Tóm tắt câu chuyện resume la trama, personajes y mensajes clave de "Nhà Giá Kim".
Sơ đồ tư duy này, được tạo bằng EdrawMind, tập trung vào Chương 7, nội dung tóm tắt các lý do tại sao Thuyết Trường TC Hành vi Chọn Ràng và Thuyết Trường Hiệu quả Thế không đúng. Các lý do được chia thành các nhóm chính như: Sơ sảnh và làm rõ sự trùng giữa ký vọng thức ứng và ký vọng hợp lý, Giải thích tại sao các hối Arbitrage cho thấy hợp lý của giá thuyết trường hiệu quả, Xác định và giải thích yếu tố nào của thuyết trường TC quả đối với thực tiễn, Đánh giá tác động của thông tin mới lên giá có phương. Mỗi nhóm lý do được phân tích chi tiết với các điểm mấu chốt và ví dụ minh họa.
Mind map này được tạo bằng EdrawMind, tập trung vào chủ đề "Tiền, Ngân Hàng, Tt Tài Chính CLC9". Nó cung cấp một cái nhìn tổng quan về các khái niệm cơ bản, các chức năng của tiền tệ, hệ thống ngân hàng, và các công cụ tài chính. Mind map được chia thành nhiều mục nhỏ, mỗi mục giải thích chi tiết các vấn đề liên quan như lịch sử tiền tệ, các loại tiền, vai trò của ngân hàng trung ương, và các chính sách tiền tệ.
Este mapa mental, creado con EdrawMind, se centra en el análisis de la obra "Nhà Giá Kim". Se divide en tres secciones principales: "Bài học rút ra sau khi đọc sách" (Lecciones aprendidas después de leer el libro), "Cảm nhận" (Impresiones) y "Tóm tắt câu chuyện" (Resumen de la historia). Bài học rút ra sau khi đọc sách incluye puntos como la importancia de escuchar a los demás, no rendirse ante dificultades, y la búsqueda de la felicidad. Cảm nhận aborda las emociones y reflexiones personales tras leer el libro. Tóm tắt câu chuyện resume la trama, personajes y mensajes clave de "Nhà Giá Kim".
Sơ đồ tư duy này, được tạo bằng EdrawMind, tập trung vào Chương 7, nội dung tóm tắt các lý do tại sao Thuyết Trường TC Hành vi Chọn Ràng và Thuyết Trường Hiệu quả Thế không đúng. Các lý do được chia thành các nhóm chính như: Sơ sảnh và làm rõ sự trùng giữa ký vọng thức ứng và ký vọng hợp lý, Giải thích tại sao các hối Arbitrage cho thấy hợp lý của giá thuyết trường hiệu quả, Xác định và giải thích yếu tố nào của thuyết trường TC quả đối với thực tiễn, Đánh giá tác động của thông tin mới lên giá có phương. Mỗi nhóm lý do được phân tích chi tiết với các điểm mấu chốt và ví dụ minh họa.
Mind map này được tạo bằng EdrawMind, tập trung vào chủ đề "Tiền, Ngân Hàng, Tt Tài Chính CLC9". Nó cung cấp một cái nhìn tổng quan về các khái niệm cơ bản, các chức năng của tiền tệ, hệ thống ngân hàng, và các công cụ tài chính. Mind map được chia thành nhiều mục nhỏ, mỗi mục giải thích chi tiết các vấn đề liên quan như lịch sử tiền tệ, các loại tiền, vai trò của ngân hàng trung ương, và các chính sách tiền tệ.
LỊCH SỬ VIỆT NAM
Sự hình thành Nước Văn Lang và Nước Âu Lạc
18 đời Vua Hùng Vương đã thay nhau trị vì nước Văn Lang
Đến thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, An Dương Vương lập nên nước Âu Lạc và vết tích Thành Cổ Loa vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
Giai đoạn Bắc thuộc: Từ năm 207 trước công nguyên đến Thế kỷ thứ 10 sau công nguyên
Vào nãm 207 trước công nguyên, nước Âu Lạc bị xâm chiếm bởi Triệu Đà là Vua nước Nam Việt. Sau đó vào nãm 111 trước công nguyên, Nước Âu Lạc bị nhà Hán đô hộ. Âu Lạc bị phân chia thành hai Quận: Giao Chỉ và Cửu Chân. Việt Nam tiếp tục bị Trung Hoa đô hộ trong suốt 11 thế kỷ. Trong giai đoạn nầy nhiều anh hùng dân tộc đã dấy binh khởi nghĩa đấu tranh giành độc lập như :
➞ Khởi nghĩa Hai Bà Trưng của hai chi em Trưng Trắc Trưng Nhị năm 40 - 43
➞ Khởi nghĩa Bà Triệu của bà Triệu Thị Trinh năm 248
➞ Khởi nghĩa của Lý Nam Đế hay còn gọi Lý Bôn hay lý Bí năm 542 - 602 lấy tên nước là Vạn Xuân kinh đô tại Long Biên (Long Biên Hà Nội ngày nay)
➞ Khởi nghĩa Mai Thúc Loan còn gọi Mai Hắc Đế năm 722
➞ Khởi nghĩa Phùng Hưng năm 766 - 791
Ngô Quyền với trận đại thắng vang dội quân Nam Hán trên Sông Bạch đằng Năm 938, đã chấm dứt 1000 nãm đô hộ và giành lại chủ quyền cho Việt Nam.
Ngô - Ngô Quyền > Đinh - Đinh Tiên Hoàng > Tiền Lê - Lê Hoàn > Lý - Lý Công Uẩn > Trần - Trần Thái Tông > Nhà Hồ - Hồ Quí Ly > Hậu Trần - Trần Trùng Quang > Lê Sơ (Lê lợi) > Nhà Mạc - Mạc Thái Tổ > Lê Trung Hưng - Lê Chiêu Thống > Triều đại Tây Sơn - Nguyễn Huệ > Nhà Nguyễn từ Nguyễn Ánh đến Bảo Đại 1945. Trịnh Nguyễn phân tranh từ giữa thời Lê Sơ khéo dai gần 200 năm đến hết Lê Trung Hưng. Nhà nguyễn tồn tại đến 1945 với Bảo Đại là vị vua cuối cùng.
Lịch sử các Triều đại phong kiến Việt Nam: Thế kỷ thứ 10, Ngô, Đinh, Tiền Lê đã bảo vệ nền độc lập tự chủ của đất nước
Triều đại Ngô: ( 939 - 965 ) 26 năm với 5 vị Vua tên nước Vạn Xuân kinh độ tại Cổ Loa
1. Tiền Ngô Vương - Ngô Quyền ( 939-944); 2. Dương Bình Vương - Dương Tam Kha (Là em vợ là cướp ngôi) (944-950); 3. Nam Tấn Vương - Ngô Xương Căn (con thứ hai của Ngô Quyền) (950-965); 4. Thiên Sách Vương - Ngô Xương Ngập (Cháu Ngô Quyền) 951-959).
Trong giai đoạn 951 - 959 nước ta có 2 Vua: 5. Ngô Sứ Quân - Ngô Xương Xí (965); 1. Đinh Tiên Hoàng - Đinh Bộ Lĩnh (968-979); 2. Đinh Phế Đế - Đinh Toàn (979-980).
Triều Đinh: ( 968 - 980) 12 năm với 2 đời vua có tên Quốc hiệu là Đại Cồ Việt kinh đô tại Hoa Lư
Đinh Toàn mới lên 6 tuổi, được triều thần đưa lên ngôi vua. Nhân cơ hội đó nhà Tống cho quân sang xâm lược nước ta. Vì lợi ích của dân tộc, Thái hậu Dương Vân Nga (vợ của Đinh Tiên Hoàng, mẹ đẻ của Đinh Toàn), thể theo nguyện vọng các tướng sĩ, đã trao áo "Long Cổn" (biểu tượng của ngôi vua) cho Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn, tức là Lê Đại Hành.
Tiền Lê: (980 - 1009) 29 năm với 3 đời Vua Quốc hiệu là Đại Cồ Việt kinh đô tại Hoa Lư
1. Lê Đại Hành - Lê Hoàn (980-1005); 2. Lê Trung Tông - Lê Long Việt (1005); 3. Lê Ngoạ Triều - Lê Long Đĩnh (1005 - 1009).
Lê Long Đĩnh đã làm việc càn dỡ giết Vua cướp ngôi, thích dâm đãng, tàn bạo, róc mía trên đầu nhà sư... Do chơi bời trác táng quá Lê Ngoạ Triều làm vua được 4 năm (1005 - 1009) thì mất, thọ 24 tuổi. Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé, dưới sự đạo diễn của quan Chi Hậu Đào Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế
Thời Lý: (1009 – 1225 ) 9 đời Vua trong 216 năm
1. Lý Thái Tổ - Lý Công Uẩn (1010 – 1028) năm 1010 dời đô về Thăng Long; 2. Lý Thái Tông - Lý Phật Mã (1028 – 1054) năm 1054 đổi tên Quốc hiệu là Đại Việt kinh đô tại Thăng Long; 3. Lý Thánh Tông - Lý Nhật Tôn (1054 – 1072); 4. Lý Nhân Tông - Lý Càn Đức (1072 – 1128) - Quốc tử giám đầu tiên được lập vào năm 1076 tại Kinh thành Thăng Long; 5. Lý Thần Tông - Lý Dương Hoán (1128 - 1138); 6. Lý Anh Tông - Lý Thiên Tộ (1138 - 1175); 7. Lý Cao Tông - Lý Long Trát (1176 - 1210); 8. Lý Huệ Tông - Lý Sảm (1211 - 1224); 9. Lý Chiêu Hoàng - Lý Phật Kim (1224 - 1225).
Đời Trần: (1226 – 1400 ) 175 năm với 12 đời Vua
1. Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1225 - 1258)
Chiến tranh Nguyên Mông lần thứ nhất năm 1258
2. Trần Thánh Tông (Trần Hoảng, 1258 - 1278)
3. Trần Nhân Tông (Trần Khâm, 1279-1293)
Chiến tranh Nguyên Mông lần 2 năm 1285
Chiến tranh Nguyên Mông lần 3: năm 1287 - 1288
Năm 1289 đã phong Trần Quốc Tuấn là "Hưng Đạo đại vương". Cách gọi đầy đủ tước hiệu được phong là "Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn". Dân gian và đời sau gọi tắt là "Trân Hưng Đạo"
4. Trần Anh Tông (1293 - 1314); 5. Trần Minh Tông (1314 - 1329); 6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341); 6. Trần Hiến Tông (1329 - 1341); 7. Trần Dụ Tông (1341 - 1369); 8. Trần Nghệ Tông (1370 - 1372); 9. Trần Duệ Tông (1372-1377); 10. Trần Phế Đế (1377-1388); 11. Trần Thuận Tông (1388-1398); 12. Trần Thiếu Đế (1398-1400).
Nhà Hồ (1400 – 1407) 7 năm với 2 đời Vua đổi tên Quốc hiệu là Đại Ngu kinh đô tai Tây Đô (Thanh Hóa) (Ngu có nghĩa Yên Vui)
1. Hồ Quý Ly (1400-1401); 2. Hồ Hán Thương (1401-1407).
Năm 1406 Nhà Minh lấy cớ Hồ Qúy Ly cướp ngôi nhà Trần, đem 80 vạn quân sang đánh chiếm nước ta. Quân dân nhà Hồ đã quyết liệt chông trả nhưng thất bại. Ngày 17/6/1407, quân Minh bắt được cha con Hồ Qúy Ly kết thúc 7 năm ngắn ngủi của Nhà Hồ.
Thời Hâu trần: ( 1407 - 1414) 7 năm với 2 đời Vua
1. Giản Định Đế - Trần Ngỗi (1407-1409); 2. Trần Trùng Quang - Trần Quý Khoáng (1409-1414).
Tháng 4 năm Giáp Ngọ - 1414, do quân ít không thể chống lại được với quân Minh đã bắt được Trần Quý Khoáng, Đặng Dung, Nguyễn Suý giải về Trung Quốc, trên đường đi vua tôi nhà Hậu Trần đã nhảy xuống biển tự tử để tỏ rõ khí phách, nhà Hậu Trần chấm dứt từ đó.
Thời kỳ Bắc thuộc
Thời kỳ Bắc thuộc
Sau khi chiếm được Đại Việt, quân Minh chia nước ta thành quận huyện để cai trị. Chúng bắt nhân dân ta làm tôi tớ, thuế má lao dịch nặng nề, cuộc sống vô cùng cực khổ. Ngày Mậu Thân, tháng Giêng năm Mậu Tuất (7/2/1418), Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Có quân sư Nguyễn Trãi dâng sách Bình Ngô nhằm thu phục lòng người, cháu nội của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán là Trần Nguyên Hãn và nhiều nhân tài, hào kiệt các nơi tham gia. Ngày 3/1/1428, nghĩa quân hoàn toàn thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập nên triều đại nhà Lê. Sử gọi là Hậu Lê để phân biệt với Tiền Lê 980-1009 do Lê Hoàn sáng lập.
Lê sơ - Hậu Lê (1428-1527) 10 đời vua trong 100 năm đổi tên nước là Đại Việt kinh đô tại Đông Kinh (Hoàng thành Thăng Long ngày nay)
Lê Thái Tổ - Lê Lợi (1428-1433); Lê Thái Tông - Lê Nguyên Long (1433-1442); Lê Nhân Tông - Lê Bang Cơ (1442-1459); Lê Thánh Tông - Lê Tư Thành (1460-1497); Lê Hiến Tông - Lê Sanh (1498-1504); Lê Túc Tông - Lê Thuần (6/6/1504-7/12/1504); Lê Túc Tông - Lê Thuần (6/6/1504-7/12/1504); Lê Uy Mục - Lê Tuấn (1505-1509); Lê Tương Dực - Lê Oanh (1509-1516); Lê Chiêu Tông - Lê Y (1516-1522); Lê Cung Hoàng - Lê Xuân (1522-1527).
Ngày 15 tháng 6 năm Đinh Hợi - 1527, Mạc Đăng Dung đem quân từ Cổ Trai vào kinh đô Thăng Long ép vua phải nhường ngôi, bắt Vua và Thái hậu tự tử. Như vậy Lê Cung Hoàng ở ngôi được 5 năm, thọ 21 tuổi.
Chiến tranh Lê - Mạc
Nhà Mạc (1527 - 1593)
Thời kỳ đầu kinh đô nhà Mạc tại Kinh Thành Thăng Long, sau đó chạy lên phía Bắc đặt kinh đô tại Cao Bình - TP Cao Bằng ngày nay:
Mạc Thái Tổ - 1527-1529; Mạc Mục Tông - 1562-1592; Mạc Cảnh Tông - 1592-1593; Mạc Đại Tông - 1593-1625; Mạc Minh Tông - 1638-1677; Mạc Đức Tông - 1681-1683 (cuối cùng) Tàn dư họ mạc còn tồn tại đến năm 1593.
Trịnh Nguyễn phân tranh kéo dài hơn 150 năm
Trịnh – Nguyễn phân tranh là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở miền Nam (Đàng Trong) và kết thúc khi nhà Tây Sơn lật đổ cả chúa Nguyễn lẫn chúa Trịnh.
Ban đầu, cả thế lực họ Trịnh và họ Nguyễn đều mang khẩu hiệu "phù Lê diệt Mạc" để lấy lòng thiên hạ và thề trung thành với triều Hậu Lê. Sau khi nhà Mạc đã bị đánh đổ, trên danh nghĩa, cả Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn đều là 2 vị bề tôi của nhà Hậu Lê, cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều là lãnh thổ của nhà Lê. Nhưng trên thực tế thì cả hai tập đoàn phong kiến này đều tạo thế lực cát cứ cho riêng mình như 2 nước riêng biệt, vua nhà Hậu Lê đã không còn thực quyền nên không ngăn chặn được sự phân tranh giữa hai họ Trịnh – Nguyễn
Nhà Nguyễn ở đang trong đã mở rộng bờ cõi bằng việc diệt Chiêm Thành, lấn sang Chân Lạp để mở mang bờ cõi. Hai bên đều có những chúa cai trị giỏi nên ổn định được lãnh thổ suốt hơn 150 năm
Lê Trung Hưng - Hậu Lê với 16 đời vua Lê nối tiếp nhau trong 256 năm kinh đô tại Đông Kinh (Hoàng Thanh Thăng Long ngày nay)
Trang Tông 1533-1548; Trung Tông 1548-1556; Anh Tông 1556-1573; Thế Tông 1573-1599; Kính Tông 1600-1619; Thần Tông 1619-1643 và 1649-1662; Chân Tông 1643-1649; Huyền Tông 1663-1671; Huyền Tông 1663-1671; Hy Tông 1676-1704; Dụ Tông 1705-1728; Hôn Đức Công 1729-1732; Thuần Tông 1733-1735; Ư Tông 1735-1740; Hiển Tông 1740-1786. Sinh ra công chúa Lê Ngọc Hân sau này là vợ của Nguyên Huệ; Chiêu Thống 1787-1789,
Trịnh Bồng tự lập làm nguyên soái Yến Đô vương và lấn át nhà vua khiến cho triều chính rối ren, chém giết lẫn nhau. Nguyễn Huệ khi đó là Bắc Bình Vương kéo quân ra Bắc dẹp loạn rồi lại rút quân về Phú Xuân.
Để khôi phục lại triều Lê, tháng 7/1788 Hoàng thái hậu nhà Lê sang cầu viện nhà Mãn Thanh. Dựa vào thế quân Mãn Thanh, Lê Chiêu Thống trở lại kinh đô Thăng Long đã trả thù tàn bạo những người theo Tây Sơn.
Mồng 5 tết năm Kỷ Dậu (1789), quân đội Tây Sơn do hoàng đế Quang Trung trực tiếp chỉ huy kéo ra Bắc đã đánh tan 29 vạn quân xâm lược Mãn Thanh ở gò Đống Đa giành độc lập cho tổ quốc ta. Lê Chiêu Thống, vua bán nước, đã chạy theo tàn quân nhà Thanh sang Trung Quốc.
Triều đại Tây Sơn (1789 - 1802) - Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ kinh đô tại Qui Nhơn và Phú Xuân (Huế)
Khi vua Quang Trung đang định chuẩn bị đem quân vào Nam đánh Gia Định thì đột ngột qua đời (1792). Con là Nguyễn Quang Toản còn nhỏ tuổi lên nối ngôi không có người lãnh đạo đủ năng lực, nhà Tây Sơn nhanh chóng suy yếu. Nội bộ xảy ra tranh chấp. Giữa năm 1802 Nguyễn Ánh (Tàn dư của đàng trong) tiến ra chiếm được Thăng Long. Nguyễn Ánh đã trả thù những người theo Tây Sơn vô cùng tàn bạo: Mộ của vua Thái Đức và vua Quang Trung bị quật lên, hài cốt bị giã thành bột nhồi vào thuốc súng và bắn đi. Nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái bị voi giày, Trần Quang Diệu bị chém đầu.
Triều Nguyễn (1802-1945) đổi tên nước là Việt Nam kinh đo tại Huế
Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802 và lập ra triều Nguyễn với 13 đời Vua trong 143 năm
1. Nguyễn Phúc Ánh (1802-1820) Sáng lập nhà Nguyễn; 2. Nguyễn Phúc Đảm - Minh Mạng (1820 - 1841) quốc hiệu được đổi thành Đại Nam; 3. Nguyễn Phúc Miên Tông - Thiệu Trị (1841 - 1847); 4. Nguyễn Phúc Hồng Nhậm - Tự Đức (1847-1883); 5. Nguyễn Phúc Ưng Chân - Dục Đức (1883); 6. Nguyễn Phúc Hồng Dật - Hiệp Hòa (1883); 7. Nguyễn Phúc Ưng Đăng - Kiến Phúc (1883-1884); 8. Nguyễn Phúc Ưng Lịch - Hàm Nghi (1884-1885); 9. Nguyễn Phúc Ưng Kỷ - Đồng Khánh (1885-1889); 10. Nguyễn Phúc Bửu Lân - Thành Thái (1889-1907); 11. Nguyễn Phúc Vĩnh San - Duy Tân (1907 - 1916); 12. Nguyễn Phúc Bửu Đảo - Khải Định (1916 - 1925); 13. Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy - Bảo Đại (1925 - 1945).
Lịch sử Việt Nam Nam trong thời kỳ Pháp thuộc
1858 Quân Pháp chiếm đà Nẵng, đánh dấu sự đô hộ của Pháp ở đông Dương. Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi lãnh đạo; 1860 – 1887 Cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng ở Bình định; 1884-1889 Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thiện Thuật ở Bãi Sậy; 1885-1895 Cuộc khởi nghĩa của Phan đình Phùng ở Nghệ Tĩnh; 1886-1887 Cuộc khởi nghĩa của đinh Công Tráng ở Thanh Hóa; 1887-1913 Cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế; 1904-1908 Phong trào đông Du của Phan Bội Châu và phong trào đông Kinh của Phan Châu Trinh.; Tháng 12/1927 Cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học ở Yên Bái
Ngày 03/02/1930 Thành lập đảng Cộng Sản đông Dương (đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay); Tháng 05/1930 – tháng 04/1931 Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh; Tháng 09/1940 Quân Nhật đến đông Dương
Tháng 09/1940 Khởi nghĩa Bắc Sơn; Ngày 23/11/1940 Khởi nghĩa Nam Kỳ; Ngày 19/05/1941 Thành lập mặt trận Việt Minh; Ngày 09/05/1945 Nhật hất cẳng Pháp khỏi đông Dương; Ngày 19/08/1945 Quyết định Tổng khởi nghĩa của mặt trận Việt Minh ở Tân Trào.
Ngày 02/09/1945 Hồ Chủ Tịch tuyên bố độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thủ đô là Hà Nội. Sau Cách mạng tháng 8 dân tộc Việt Nam tiếp tục chịu đựng sự xâm lãng của quân ngoại bang; Ngày 19/12/1946 Phong trào chống quân Pháp được phục hồi; Tháng 10/1947 Chiến dịch Thu đông ở Việt Bắc; Mùa Thu-đông nãm 1950 Quân Pháp thất bại ở biên giới Việt – Trung; Tháng 10/1952 Quân Pháp thất bại trong chiến dịch Tây Bắc; 13/03/1954-7/5/1954 Quân Pháp bại trận ở điện Biên Phủ. Ngày 21/07/1954 Hiệp định Geneva được ký kết nêu rõ: thừa nhận các quyền dân tộc của người Việt Nam, Lào và Cambodia, không can thiệp vào nội bộ của các nước này, thực hiện lệnh ngừng bắn ở cả hai bên, tập trung quân tại vĩ tuyến 17 (ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam – Bắc Việt Nam), tổng tuyển cử vào nãm 1956.
Lịch sử Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ
Sau khi thực dân Pháp rút khỏi miền Bắc, Việt Nam bị tạm thời chia cắt làm hai miền tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc (Việt Nam dân chủ cộng hòa) bắt đầu xây dựng lại; 1956 Mỹ ủng hộ chính quyền của Ngô đình Diệm. Năm 1956 đã không có cuộc Tổng tuyển cử cả nước đề bầu chính quyền mới thông nhất đất nước như Hiệp định Geneva năm 1954; 1956-1960 Phong trào đồng Khởi; 1961-1965 Mỹ thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam; 1965-1968 Mỹ thất bại trong chiến lược “chiến tranh địa phương” ở miền Nam Việt Nam; 5/8/1964-1/10/1968 Mỹ thất bại trong cuộc chiến leo thang lần thứ nhất ở miền Bắc; 30/1/1968-23/09/1968 Cuộc tổng tấn công nãm Mậu Thân của nhân dân và lực lượng cách mạng miền Nam; Ngày 06/061969 Thành lập chính quyền cách mạng lâm thời; 1968-1972 Mỹ thất bại trong cố gắng “Việt Nam hóa”chiến tranh; 06/04/1972-10/1972 Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc; 18-29/12/1972: Mỹ tấn công Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh khác ở miền Bắc Việt Nam bằng bom B-52 và máy bay chiến đấu F111.
Ngày 23/1/1973 Hiệp định Paris được ký kết; Ngày 27/01/1973 Hiệp định Paris chính thức công nhận Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và yêu cầu quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam; Ngày 06/01/1975 Giải phóng đường 14 và tỉnh Phước Long, đánh dấu cho việc tấn công và lật đổ chính quyền bù nhìn Sài Gòn; 4-12/03/1975 Thất bại của chính quyền Sài Gòn trong chiến dịch Tây Nguyên; Tháng 03/1975 Các thất bại liên tiếp của chính quyền Sài Gòn ở Huế và đà Nẵng; Ngày 16/04/1975 Tuyến phòng ngự ở Phan Rang bị thất thủ; Ngày 26/04/1975 Bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh; Ngày 30/04/1975 Giải phóng Sài Gòn; Ngày 02/05/1975 Giải phóng các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và toàn bộ miền Nam.
Chiến tranh biên giới 1975 — 1979
Chiến tranh biên giới Tây Nam 1975-1979
Chiến tranh biên giới Việt – Trung năm từ ngày 17/2/1979 đến - 16/3/1979. Trên thực tế, cuộc chiến kéo dài đến năm 1991. Trong đó có trân đánh rất ác liệt và tổn thất lớn ở Vị Xuyên, Hà Giang ngày 12 / 7/1984
Ngày 02/07/1976 đổi tên nước thành Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam lấy Hà Nội là thủ đô và đổi tên Sài Gòn là thành phố Hồ Chí Minh.
Sau giải phóng Cả nước khắc phục hậu quả của hơn 30 nãm chiến tranh và bắt đầu xây dựng đất nước. Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển kinh tế
Bài học qua 4000 năm lịch sử
Việt Nam là cái nôi của văn minh lúa nước, với xã hội thời Đông Sơn hay còn gọi văn minh Sông Hồng. Trong chiều dài lịch sử, độ dài thời gian người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng của các thế lực bên ngoài, có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc đấu tranh giữ nước, khởi nghĩa và đấu tranh giải phóng. Nguyên nhân tại sao các nước bên ngoài luôn rình rập nhòm ngó nhằm xâm chiếm nước ta:
Thể trạng nguồn gốc con người Việt nhỏ bé, tư duy manh mún nhỏ lẻ, sống bên cạnh đó là đất đai nhiều tài nguyên như biển, đồi núi, sông ngòi, khoáng sản. Đặc biệt người con gái Việt rất đẹp với vóc dáng nhỏ gọn và tính tình chịu thương chịu khó. Đây là nguyên nhân của các thế lực ngoại bang sự nhòm ngó và hòng chiếm đoạt.
Người Giao chỉ cũ với nền tảng văn hóa bảo thủ, khá ương (canh tân đất nước 1858, nhưng đều bị triều Nguyễn khước từ) nhưng cũng khá yêu quê hương đất nước. Chính vì vậy các cuộc chiến tranh sảy ra chủ yếu là để bảo vệ bản thân bảo vệ quê hương đất nước chứ người Việt không chủ động tấn công các dân tộc đất nước khác. Một điều đã trở thành quy luật của các cuộc đấu tranh giữ nước của dân tộc Việt là “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh”.
Nước Việt dưới thời Lý - Trần - Lê Sơ được biết đến như một quốc gia thịnh vượng ở châu Á. Người Việt đã đắp được đê Sông Hồng thời kỳ này, đã phổ biến chữ Nôm, chữ viết riêng của Việt Nam, đã ra đời của Bộ luật Hồng Đức, Đại Việt Sử ký. Lịch sử gọi thời kỳ này là Kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Thăng Long (bây giờ là Hà Nội) cũng được chính thức công nhận là Kinh đô của Đại Việt với Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn vào năm 1010.
Ngoài ra, một tinh thần rất hiếm của người Việt là rất đoàn kết khi có chiến tranh nhưng khá giở khi làm ăn kinh tế. Trong 10 năm đầu của thời kỳ sau chiến tranh, nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội không thực hiện được do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nền kinh tế Việt Nam rơi vào khủng hoảng, trì trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Lịch sử cũng cho con người Việt truyền thống tương thân tương ái, sống có đạo lý, nhân nghĩa; khi gặp hoạn nạn thì đồng cam cộng khổ, cả nước một lòng; tính thích nghi và hội nhập; lối ứng xử mềm mỏng và truyền thống hiếu học, trọng nghĩa, khoan dung. Đây chính là điểm mạnh tiềm tàng nhưng trước vòng luẩn quẩn của cuộc sống, sự cám dỗ của đồng tiền, sự suy thoái về đạo đức con người Việt liệu có dũng cảm vượt qua được không vẫn là một câu hỏi còn cần thời gian và lịch sử trả lời.